vấn đề về chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam, chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam, vấn đề về chế độ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam,

Vấn đề về chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam

Chế độ trợ cấp thôi việc và trợ cấp thất nghiệp tuy có cơ chế hoạt động khác nhau nhưng đều có mục tiêu chung là hỗ trợ người lao động về mặt tài chính khi họ không có thu nhập chủ động, đang trong tình trạng thất nghiệp, không có việc làm. Chế độ trợ cấp thôi việc đã kết thúc vào ngày 1 tháng 1 năm 2009, thay thế vào đó là chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, dù là chế độ trợ cấp thôi việc hay hiện tại là chế độ bảo hiểm thất nghiệp thì vẫn tồn đọng nhiều khó khăn, bất cập đáng chú ý. Trong bài viết sau, ASL LAW sẽ giải thích về các vấn đề trong chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam.

Căn cứ Điều 140 Luật Bảo hiểm xã hội 2006: “Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì từ ngày 1/1/2008, đối với bảo hiểm thất nghiệp thì từ ngày 1/1/2009”. Như vậy, từ ngày 1/1/2009, chế độ trợ cấp thôi việc đã chính thức hết hiệu lực để chuyển sang chế độ bảo hiểm thất nghiệp quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội 2006, người lao động và người sử dụng lao động có quyền lợi cũng như nghĩa vụ bắt buộc trong việc tham gia chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam.

Tuy nhiên, người lao động đã ký kết hợp đồng lao động và làm việc trước ngày 1/1/2009 sẽ vẫn được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm chi trả bởi người sử dụng lao động theo thời gian làm việc trước khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp và mức lương bình quân 6 tháng liền kề trước khi thôi việc.

Kể từ thời điểm đóng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động chỉ được tính trợ cấp thôi việc cho thời gian thử việc không đóng bảo hiểm xã hội, nghỉ thai sản, ốm đau từ 14 ngày trở lên hoặc thời gian ngừng việc không do lỗi của người lao động mà không được trả lương từ 14 ngày trở lên trong tháng.

Chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam

Chế độ bảo hiểm thất nghiệp được thành lập dựa trên nguyên tắc chia đều rủi ro giữa tất cả những cá nhân tham gia cũng như mọi chế độ bảo hiểm khác tại Việt Nam và thế giới.

So với chế độ trợ cấp thôi việc trước đó, chế độ bảo hiểm thất nghiệp được cả 2 nhóm người lao động và người sử dụng lao động đón chào, bởi lẽ chế độ bảo hiểm thất nghiệp vận hành dựa trên cơ sở người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được quản lý bởi Nhà nước, trong khi chế độ trợ cấp thôi việc trước đó được doanh nghiệp quản lý và tự chi trả khi người lao động nghỉ việc.

Theo Điều 57 Luật Việc làm 2013, người lao động đóng 1% tiền lương tháng và người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Về quy trình, trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động chưa có việc làm và có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp phải nộp 1 bộ hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp cho trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi người lao động muốn nhận trợ cấp thất nghiệp. Trường hợp hồ sơ nộp hợp lệ, Trung tâm dịch vụ việc làm sẽ xem xét, trình Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động.

Mức trợ cấp thất nghiệp sẽ bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp của người lao động. Người lao động đóng từ đủ 12 – 36 tháng sẽ được hưởng 03 tháng trợ cấp. Sau đó, cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ thêm 12 tháng thì người lao động sẽ được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp cho đến tối đa là 12 tháng hưởng chế độ.

Vấn đề về chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay

Theo thống kê của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, năm 2010 số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 7,2 triệu người. Đến năm 2015, con số này đạt đến 10,3 triệu người. Năm 2020, cả nước có hơn 13,3 triệu người tham gia chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam.

Các con số này đã thể hiện rõ sức hấp dẫn của chế độ bảo hiểm thất nghiệp qua hơn 1 thập kỉ phát triển, được ủng hộ bởi các chính sách ưu đãi của Chính phủ Việt Nam. Đặc biệt, trong hơn 2 năm đại dịch Covid-19 bùng phát, chế độ bảo hiểm thất nghiệp đã tạo ra những sự hỗ trợ thiết thực cho một lượng lớn người lao động mất việc làm.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, việc triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn tồn đọng nhiều khó khăn, bất cập:

Đầu tiên, mức đóng tối đa giữa chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp có sự khác biệt mặc dù tiền lương đóng bảo hiểm thất nghiệp dựa trên tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Mức lương đóng BHXH tối đa bằng 20 tháng lương cơ sở. Tương tự, mức lương đóng bảo hiểm thất nghiệp tối đa đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định là 20 tháng lương cơ sở nhưng đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì mức đóng tối đa sẽ là 20 tháng lương tối thiểu vùng.

Sự không đồng bộ này dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý đối tượng tham gia và theo dõi thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp đối với đơn vị sử dụng lao động.

Thứ hai, bất cập nữa trong chế độ bảo hiểm thất nghiệp hiện tại chính là sự lỏng lẻo, chưa đủ chặt chẽ trong điều kiện hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp.

Quy định về việc thực hiện chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động thất nghiệp hiện nay còn chưa được cụ thể, luật hóa. Điều này dẫn đến việc thực hiện các công đoạn này chỉ mang tính hình thức, không có hiệu quả cao.

Ngoài ra, điều kiện hưởng chế độ hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cũng như nâng cao trình độ kỹ năng nghề để đảm bảo việc làm cho người lao động còn chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế tại thị trường Việt Nam.

Thứ ba, khoảng cách lớn giữa thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp và chế độ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Khoản 2 Điều 50 Luật Việc làm 2013 quy định về thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau: “Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.”

Theo quy định trên thì khi đã đóng đủ 12 tháng, người lao động sẽ đủ điều kiện hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Trong khi đó, người lao động phải tham gia đóng đủ tối thiểu 48 tháng thì mới đủ điều kiện để được hưởng từ 4 tháng trợ cấp thất nghiệp trở lên.

Lỗ hổng trong quy định về thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp trong Luật Việc làm 2013 đã dẫn đến tình trạng người lao động đóng đủ 12 tháng có thể chủ động nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp. Sau khi đã nhận đủ 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, người lao động quay trở lại làm công việc khác trong 12 tháng tiếp theo rồi lại tiếp tục nghỉ.

Thậm chí, có nhiều trường hợp người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp trong 3 tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp đó nhưng vẫn báo lên cơ quan bảo hiểm rằng họ không tìm được việc làm, đang trong tình trạng thất nghiệp.

Việc thỏa thuận ngầm như nêu trên hoặc liên tục xoay chuyển công việc đều tạo gánh nặng lớn cho người sử dụng lao động hoặc quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Người sử dụng lao phải đối mặt với rủi ro về biến động nhân sự, dẫn đến việc khó khăn khi thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh.

Giải pháp

Để giải quyết các vấn đề trên, Cơ quan bảo hiểm xã hội đã nhiều lần đề nghị sửa đổi điều kiện về việc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp với việc các trường hợp chủ động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc không được xét hưởng trợ cấp thất nghiệp để phù hợp bản chất của BHTN, đảm bảo đúng quy định Luật Việc làm.

Ngoài ra, việc sửa đổi được bản chất các vấn đề trên cũng sẽ hạn chế tình trạng lợi dụng chính sách qua việc chủ động nghỉ việc, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động để hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm tải gánh nặng cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp và giúp đỡ về mặt tài chính cho những người lao động thật sự trong tình trạng thất nghiệp.

Thêm vào đó, việc gia tăng tính thực thi của quy định pháp luật liên quan đến vi phạm bảo hiểm thất nghiệp để khiến người lao động thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như tính răn đe nếu như họ không thực hiện những nghĩa vụ đó cũng là cần thiết.

Q&A

Khách hàng: “Trong thực tiễn, tôi có nghe về trường hợp người lao động đã có đủ 12 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp nhưng chỉ được cơ quan bảo hiểm chi trả 1 tháng trợ cấp thất nghiệp chứ không phải 3 tháng, khác với quy định trong luật. Liệu việc này có đúng không?”

Như được trình bày ở trên, căn cứ Khoản 2 Điều 50 Luật Việc làm 2013 quy định về thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau: “Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.”

Như vậy, trường hợp người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định đủ 12 tháng trở lên thì được hướng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Việc cơ quan bảo hiểm chỉ chi trả 1 tháng trợ cấp thất nghiệp cho người lao động là thực hiện không đúng quy định về chế độ trợ cấp thất nghiệp theo quy định của Luật Việc làm. Do vậy, người lao động có quyền:

  • Gửi đơn khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan bảo hiểm xã hôi thực hiện việc chi trả để được giải quyết
  • Trường hợp người lao động không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả trực tiếp, người lao động có quyền khiếu nại lên cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.
  • Trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh, người lao động có quyền khởi kiện tại tòa án.

Bài viết liên quan: 

  1. Bảo lưu ngày nghỉ phép đối với người lao động Việt Nam
  2. Vài điều cơ bản về khái niệm lao động tại Việt Nam
  3. Chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng cho người cao tuổi tại Việt Nam
  4. Tổng hợp mọi điểm mới trong Bộ luật Lao động 2019 tại Việt Nam
  5. Quy định về việc tuyển dụng và sử dụng người lao động chưa thành niên tại Việt Nam

Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.

    LIÊN HỆ

    Thông tin liên hệ

    Đặt câu hỏi


    Lưu ý: Quý khách vui lòng điền đẩy đủ thông tin vào ô có (*)

    BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

    Đại diện sở hữu trí tuệ

    Dịch vụ đăng ký nhãn hiệu

    Đăng ký nhãn hiệu

    Dịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế

    Đăng ký nhãn hiệu quốc tế

    Đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam

    Đăng ký thương hiệu quốc tế

    Quy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam

    Thủ tục đăng ký nhãn hiệu

    Quy trình đăng ký nhãn hiệu

    Đăng ký nhãn hiệu như thế nào

    Thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

    Cách thức đăng ký nhãn hiệu

    Dịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

    Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

    Dịch vụ bảo hộ nhãn hiệu

    Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoá

    Dịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền

    Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyền

    Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền

    Đăng ký nhãn hiệu độc quyền

    Thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền

    Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nào

    Đăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào

    Đăng ký nhãn hiệu mới

    Đăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu

    Tư vấn đăng ký nhãn hiệu

    Luật sư sở hữu trí tuệ

    Đăng ký nhãn hiệu công ty

    Đăng ký nhãn hiệu logo

    Đăng ký sáng chế

    Dịch Vụ đăng ký sáng chế

    Đăng ký độc quyền sáng chế

    Đăng ký bản quyền tác giả

    Đăng ký bản quyền phần mềm

    Thủ tục đăng ký bản quyền

    Đăng ký bản quyền

    Đăng ký bản quyền bài hát

    Công ty luật sở hữu trí tuệ

    Đại diện sở hữu trí tuệ

    Đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài

    Đăng ký thương hiệu

    Đăng ký thương hiệu độc quyền

    Phí đăng ký nhãn hiệu

    Dịch vụ đăng ký thương hiệu

    Đăng ký thương hiệu như thế nào

     

    ***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW***

     

     

    Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và Startup

     

    Đăng ký nhãn hiệu quốc tế

    Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt Nam

     

    Đăng ký sáng chế

    Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam

     

    Tư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)

    Mở công ty tại Việt Nam

     

    Tư vấn tài Chính – Ngân hàng

    Mở văn phòng đại diện tại Việt Nam

     

    Dịch vụ Soạn thảo hợp đồng

    Dịch vụ sở hữu trí tuệ

     

    Pháp lý về lao động và việc làm

    Đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam

     

    Tư vấn giải quyết tranh chấp

    Đăng ký bản quyền

     

    Tư vấn nhượng quyền thương mại

    Công ty luật tại Hà Nội

     

    Công ty luật tại Hồ Chí Minh

    Văn phòng luật tại Hồ chí minh

     

    Tư vấn pháp lý thường xuyên

    Công ty luật sở hữu trí tuệ

     

    Tư vấn sở hữu trí tuệ

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    Contact Me on Zalo
    +84982682122
    WhatsApp chat