Cuối năm 2020, Thủ tướng đã ký và ban hành Quyết định 2205/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển trí tuệ tới năm 2030. Quyết định này bao gồm những tầm nhìn để phát triển nền sở hũu trí tuệ Việt Nam 2030, khắc phục những vấn đề vẫn còn tồn đọng hiện tại.

Mục tiêu và tầm nhìn
Chương trình được chính phủ phê duyệt này có mục tiêu đẩy mạnh nâng cao tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam 2030 và tài sản trí tuệ. Nâng tầm sức cạnh tranh của nền sở hữu trí tuệ nước nhà, tạo ra môi trường khuyến khích việc đổi mới, sáng tạo. Nhờ vào đó sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển tổng thể nền kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tầm nhìn tới 2025:
- 100% các trường đại học, viện nghiên cứu được tuyên truyền, nâng cao nhận thức và hỗ trợ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các kết quả nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo;
- Tối thiểu 40% sản phẩm được công nhận là sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm, dịch vụ chủ lực, đặc thù cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và sản phẩm gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP) được hỗ trợ đăng ký bảo hộ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sau khi được bảo hộ.
Giải quyết vấn đề:
Hiện tại sở hữu trí tuệ vẫn là một vấn đề được giáo dục và đạo tạo tương đối “mơ hồ” trong các môi trường học thuật. Mặc dù là một trong những khía cạnh quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội, các trường đại học vẫn chưa thực sự hình thành được một nền tảng vững chắc, giáo dục được cho thế hệ trẻ về các vấn đề sở hữu trí tuệ. Điển hình có thể thấy là vấn đề bản quyền, với việc sử dụng, in ấn các ấn phẩm sách lậu, sách vi phạm bản quyền trong khuôn viên các trường đại học.
Bên cạnh việc giáo dục, ý thức của toàn dân về sở hữu trí tuệ cũng phải đi từ nhận thức về sức ảnh hưởng của các sản phẩm quốc nội lên thị trường trong nước. Do đó, Chính phủ xây dựng chương trình hướng tới “Người Việt dùng Hàng Việt”, đặt chỉ tiêu 40% sản phẩm là sản phẩm chủ lực quốc gia, đặc thù của địa phương. Đồng thời, gia tăng kiểm soát thị trường, hạn chế tối đa các sản phẩm vi phạm quyền sở hữu trí tuệ như hàng lậu, hàng nhái.
Tầm nhìn tới 2030:
- Số lượng đơn đăng ký bảo hộ sáng chế của các viện nghiên cứu, trường đại học tăng trung bình 16 – 18%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12 – 14%;
- Tối thiểu 60% sản phẩm được công nhận là sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm, dịch vụ chủ lực, đặc thù cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và sản phẩm gắn với Chương trình OCOP được hỗ trợ đăng ký bảo hộ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sau khi được bảo hộ;
- Số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam tăng trung bình 8 – 10%/năm.
Giải quyết vấn đề:
Tầm nhìn sở hữu trí tuệ Việt Nam 2030 sẽ tăng cường sản phẩm đầu ra là sáng chế của các viện nghiên cứu và trường đại học, thúc đẩy phát triển công nghệ quốc gia. Ngoài ra, đẩy mạnh hơn nữa việc sản xuất và đánh bóng hàng hóa và nhãn hiệu Việt Nam trong thị trường.
Tầm nhìn Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam 2030: Bước đi cụ thể
- Tăng cường tạo ra tài sản trí tuệ, nâng cao chất lượng nhân lực: Nội dung này sẽ đẩy mạnh việc khai thác, tra cứu, nghiên cứu để tìm ra các điểm nổi bật, điểm mới để khai thác, hỗ trợ đầu ra là các sáng chế, giải pháp hữu ích có tính ứng dụng cao. Bên cạnh đó cũng là nâng cao chất lượng của nhân lực phù hợp với từng nhóm đối tượng.
- Thúc đẩy bảo hộ tài sản trí tuệ cả trong và ngoài nước
- Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác phát triển tài sản trí tuệ: Nội dung này bao gồm gắn đăng ký mã số vùng trồng, an toàn thực phẩm, chnwgs nhận chất lượng với hện thống quản lý chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận,… để xác thực, truy xuất nguồn gốc sản phẩm được bảo hộ. Bên cạnh đó đi kèm với việc quảng bá, xúc tiến thương mại để khai thác giá trị của các tài sản trí tuệ. Hỗ trợ tư vấn định giá, đặc biệt đối với đối tượng là sáng chế, tên thương mại và nhãn hiệu.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi phòng chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
- Nâng cao năng lực các tổ chức trung gian và chủ thể quyền sở hữu trí tuệ
- Tạo dựng văn hóa sở hữu trí tuệ trong xã hội: Đây là một nội dung thiết yếu trong phát triển sở hữu trí tuệ Việt Nam một cách toàn diện.
Vấn đề chưa được nhắc đến trong Quyết định
Tuy nhiên vẫn có một vấn đề còn gây khúc mắc và khó phân xử tài sản trí tuệ đó chính là mối quan hệ tài sản giữa nhượng quyền thương mại và sở hữu trí tuệ. Trong nhượng quyền thương mại, tài sản trí tuệ là một trong những đối tượng then chốt để chuyển giao quyền sử dụng. Thế nhưng nhiều quy phạm trong Luật Thương Mại và Luật Sở Hữu Trí Tuệ vẫn chưa làm rõ được phần chuyển giao, trách nhiệm các bên , hợp đồng chuyển giao của Nhượng Quyền Thương mại và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ….
Tuy nhiên, nhìn chung có thể thấy chính phủ Việt Nam đang dần tiến tới hoàn thiện, đẩy mạnh phát triển nền sở hữu trí tuệ Việt.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được hướng dẫn về dịch vụ tư vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam:
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN