Khi đăng ký danh sách người lao động làm việc tại doanh nghiệp cho các cơ quan bảo hiểm xã hội, vì doanh nghiệp đôi khi có số lượng người lao động lên đến đơn vị hàng nghìn, hàng chục nghìn nhưng đều có mức đóng tương đương nên người sử dụng lao động muốn không cần phải làm danh sách cụ thể người lao động mà vẫn đảm bảo đóng đúng, đủ số tiền bảo hiểm xã hội thì có được không? Nếu đóng như vậy thì liệu khi tai nạn xảy ra thì doanh nghiệp có được nhận số tiền hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động để chi trả cho người lao động hay không?
Theo Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 thì người lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi đạt đủ điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động là:
Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh;
b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động;
c) Trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý;
Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại các trường hợp trên.
Đăng ký bảo hiểm tai nạn lao động chung cho toàn thể người lao động mà không có danh sách chi tiết
Điều 4 Nghị định 58/2020/NĐ-CP đã quy định chi tiết về mức đóng và phương thức đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Qua đó, người sử dụng lao động hàng tháng phải đóng trên quỹ tiền lương đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, trừ trường hợp lao động là người giúp việc gia đình, theo một trong các mức sau:
a) Mức đóng bình thường bằng 0,5% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội; đồng thời được áp dụng đối với người lao động là cán bộ, công chức, viên chức và người thuộc lực lượng vũ trang thuộc các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, quân đội, công an, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng ngân sách nhà nước;
b) Mức đóng bằng 0,3% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội được áp dụng đối với doanh nghiệp bảo đảm điều kiện theo quy định tại Điều 5 của Nghị định 58/2020/NĐ-CP.
Việc đóng chế độ bảo hiểm được dựa trên tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của từng người lao động trên hợp đồng lao động. Theo đó, gần như sẽ không có trường hợp nào mà doanh nghiệp với hàng nghìn người lao động, bao gồm cả các cấp độ quản lí, tay nghề cao,… mà có mức lương và mức đóng BHXH giống hệt nhau được.
Nếu có thì nhiều khả năng là doanh nghiệp đó đang vi phạm quy định pháp luật và đóng sai mức BHXH nhằm cắt giảm chi phí và xâm phạm quyền của người lao động.
Tóm lại, nếu khi đăng ký chế độ bảo hiểm cho người lao động mà không có danh sách chi tiết thì cơ quan bảo hiểm sẽ không có cơ sở để xác định rõ ràng mức đóng và mức hưởng của người lao động. Qua đó, cơ quan bảo hiểm hoàn toàn có thể từ chối việc chi trả chế độ cho người lao động bởi không xác định được chính xác về việc họ tham gia hay họ tham gia ở mức đóng nào.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW*** |
|
|
|
||
|
||
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam |
|
|
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
Tư vấn sở hữu trí tuệ |