Gần đây, đã có nhiều cuộc tranh luận về việc tăng giới hạn giờ làm thêm ở Việt Nam để hỗ trợ sự phục hồi của nền kinh tế. Không kể đến các mâu thuẫn ý kiến xoay quanh đề xuất này thì một trong những tuyên ngôn được tán thành nhiều nhất trong các cuộc thảo luận này là dù giới hạn số giờ làm việc/tháng là bao nhiêu, trước hết người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người lao động thì mới được phép tổ chức làm thêm giờ.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 107 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Được sự đồng ý của người lao động;
- Bảo đảm số giờ làm thêm không vượt quá 50% số giờ làm việc bình thường/ngày;
- Trường hợp áp dụng quy định về thời giờ làm việc bình thường trong tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và thời giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày; không quá 40 giờ/tháng;
- Đảm bảo số giờ làm thêm không quá 200 giờ/năm, trừ trường hợp làm thêm không quá 300 giờ/năm nếu làm các công việc như sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, điện, điện tử, chế biến nông, lâm,…
Dù giới hạn về số giờ làm việc chung là gì, tính theo ngày, tuần, tháng, hay năm thì sự đồng ý của người lao động là điều kiện quan trọng nhất để chế độ làm thêm giờ có thể được thực hiện.
Theo đó, nếu không thuộc trường hợp ngoại lệ thì người sử dụng lao động phải có được sự đồng ý của người lao động về vấn đề làm thêm giờ.
Sự đồng ý của người lao động
Việc người lao động đồng ý làm thêm giờ được hướng dẫn cụ thể tại Điều 59 Nghị định 145/2020/NĐ-CP như sau:
“Điều 59. Sự đồng ý của người lao động khi làm thêm giờ
1, Trừ các trường hợp quy định tại Điều 108 của Bộ Luật Lao động, các trường hợp khác khi tổ chức làm thêm giờ, người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người lao động tham gia làm thêm về các nội dung sau đây:
a) Thời gian làm thêm;
b) Địa điểm làm thêm;
c) Công việc làm thêm.
2. Trường hợp sự đồng ý của người lao động được lập thành văn bản riêng thì tham khảo Mẫu số 01/PLIV tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Nghị định này.”
Mặc dù không yêu cầu phải có văn bản đồng ý cho làm thêm giờ vì điều này có thể làm phức tạp thêm vấn đề, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất thường xuyên tổ chức chế độ làm thêm giờ, tuy nhiên, người sử dụng lao động vẫn phải được sự đồng ý của người lao động về việc làm thêm giờ đối với các nội dung trên.
Xử phạt hành vi ép buộc người lao động làm thêm giờ
Mặc dù quy định rõ ràng nhưng vẫn có nhiều doanh nghiệp cố tình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khi ép người lao động làm thêm giờ dù họ không đồng ý.
Đây là hành vi vi phạm quyền của người lao động và trong một số trường hợp nó có thể được xét là vi phạm nhân quyền.
Theo đó, người sử dụng lao động có hành vi như vậy sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng.
Cụ thể, Khoản 3, Điều 17, Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt người sử dụng lao động vi phạm quyền của người lao động:
“3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
b) Huy động người lao động làm thêm giờ mà không được sự đồng ý của người lao động, trừ trường hợp theo quy định tại Điều 107 của Bộ Luật Lao động.”
Như vậy, nếu buộc người lao động làm thêm giờ mà không được người đó đồng ý thì doanh nghiệp sẽ bị phạt tiền từ 20-25 triệu đồng. Vì vậy, người sử dụng lao động cần hết sức lưu ý đến sự đồng ý của người lao động không chỉ để tránh bị phạt tiền mà còn đảm bảo sức khỏe của người lao động, yếu tố có liên quan trực tiếp đến năng suất của công ty.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW*** |
|
|
|
||
|
||
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam |
|
|
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
Tư vấn sở hữu trí tuệ |