Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc bảo vệ và tận dụng tài sản trí tuệ đã trở thành một yếu tố quan trọng, giúp doanh nghiệp và cá nhân khẳng định vị thế trên thị trường. Tại Việt Nam, vấn đề phân biệt và xác định tài sản trí tuệ nào có thể được đăng ký dưới hình thức nhãn hiệu hay tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đang trở thành một bài toán khó giải, đặc biệt với sự ban hành của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 số 07/2022/QH15 (“Luật Sở hữu trí tuệ 2022”) có các quy định phân biệt và xác định rõ khả năng bảo hộ tài sản trí tuệ dưới dạng nhãn hiệu hoặc quyền tác giả.
Dù với sự ban hành của Luật Sở hữu trí tuệ 2022, việc phân định ranh giới giữa hai loại tài sản này không phải lúc nào cũng rõ ràng, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về quy định pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Bài viết sau sẽ phân tích thực tiễn xã hội Việt Nam khi tiếp nhận, xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu có yếu tố liên quan đến tác phẩm đã được bảo hộ quyền tác giả cũng như quy định pháp luật mới được ban hành nhằm gỡ vướng cho vấn đề trên, qua đó đưa ra các khuyến nghị phù hợp để chủ sở hữu tài sản trí tuệ có thể có giải pháp bảo hộ tài sản của mình hiệu quả nhất.
Lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ để đầu cơ
Khoản 3 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2022 quy định tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 14 phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.
Điều kiện này thường được hiểu là để được bảo hộ quyền tác giả, tác phẩm phải có ‘tính nguyên gốc’, tức là không chứa nhiều yếu tố phổ biến, mang tính chung chung, không có dấu ấn độc đáo riêng biệt, được lấy cảm hứng quá nhiều từ các tác phẩm khác đã được bảo hộ quyền tác giả.
Theo quy định của pháp luật, có một số tác phẩm như logo có thể được đăng ký bảo hộ dưới cả dạng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và dạng nhãn hiệu. Nhiều biểu tượng, hay được biết đến như logo, có đủ điều kiện để được bảo hộ dưới cả 2 dạng quyền tác giả và nhãn hiệu. Điều kiện cần thiết là logo đó phải có tính nguyên gốc như nêu ở trên.
Nếu có tính nguyên gốc đủ để nhận diện tác giả thì logo đó có thể được đăng ký ở cả dạng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và nhãn hiệu, điều đã được thực hiện nhiều lần trong thực tế. Chính vì vậy mà tình trạng đầu cơ, đăng ký nhãn hiệu có các yếu tố tương tự, hoặc là bản sao gần giống với các tác phẩm đã được bảo hộ đã diễn ra rất nhiều.
Họ lợi dụng lỗ hổng chưa có quy định sát sao về việc không được đăng ký nhãn hiệu nếu dấu hiệu đăng ký chứa các tác phẩm đã được bảo hộ quyền tác giả trước đó. Đương nhiên, nếu dấu hiệu đăng ký giống hệt các tác phẩm thì nó nhiều khả năng sẽ bị phát hiện và từ chối đăng ký bởi các thẩm định viên. Để tránh tình trạng này, giới đầu cơ đã thực hiện các sửa đổi nhỏ, kết hợp các hình ảnh hoặc hình dạng có sẵn để tác phẩm không còn tính nguyên gốc ban đầu, sau đó đăng ký dưới dạng nhãn hiệu.
Dù quy định về bảo hộ thực thi quyền đối với tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đã có từ lâu, song việc chứng minh được rằng bên đầu cơ đăng ký với dụng ý xấu, hoặc chứng minh dấu hiệu đăng ký là bản sao của tác phẩm rất phức tạp, khó khăn hơn nhiều so với việc bảo hộ hoặc thực thi quyền đối với nhãn hiệu.
Nếu phát hiện hành vi vi phạm, chủ sở hữu quyền tác giả có nghĩa vụ chứng minh tính nguyên gốc hoàn toàn của tác phẩm. Trong phần lớn trường hợp, việc này rất khó khi họ không lường trước được việc có hành vi xâm phạm xảy ra trong tương lai, không lưu giữ đầy đủ bằng chứng cần thiết.
Ngoài ra, còn một vấn đề mà chủ sở hữu quyền tác giả cần lưu ý rằng do Việt Nam đã ký kết Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả, Việt Nam sẽ phải công nhận sự bảo hộ quyền tác giả của các quốc gia khác đã ký kết Công ước như công nhận bảo hộ quyền tác giả đối với công dân Việt Nam. Điển hình, nếu một logo được bảo hộ quyền tác giả dưới dạng tác phẩm mỹ thuật ứng dụng tại Hoa Kỳ thì tác phẩm đó cũng phải được coi như đã được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.
Trong nhiều trường hợp, sự bảo hộ này được truy ngược lại, khiến các tác phẩm mới được đăng ký gần đây bị hủy bỏ hiệu lực vì có thể trùng hoặc tương tự với các tác phẩm được bảo hộ từ lâu tại các quốc gia khác.
Mâu thuẫn thực tiễn trong việc áp dụng hai nguyên tắc đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Tiếp nối ý trên, một trong các lí do dẫn đến thực trạng hoạt động đầu cơ nhãn hiệu tại Việt Nam diễn biến phức tạp trong nhiều năm qua đến từ việc Việt Nam hiện đang tuân theo nguyên tắc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu đầu tiên.
Nguyên tắc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu đầu tiên, còn gọi là nguyên tắc “first to file,” là một trong những nguyên tắc cơ bản trong luật sở hữu trí tuệ của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Theo nguyên tắc này, quyền sở hữu nhãn hiệu sẽ được trao cho người đầu tiên nộp đơn đăng ký hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền, bất kể ai là người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu đó trên thị trường.
Dù nó trái ngược với nguyên tắc sử dụng nhãn hiệu đầu tiên “first to use” nhưng trong thực tế, phần lớn các quốc gia hiện nay đều áp dụng cả hai để xác định ai là bên thật sự có quyền hợp pháp đối với nhãn hiệu. Điển hình, Hoa Kỳ là quốc gia áp dụng nguyên tắc sử dụng đầu tiên nhưng họ cũng áp dụng một phần nguyên tắc “first to file” trong hệ thống của mình.
Nếu hai bên cùng sử dụng nhãn hiệu tương tự cho các loại hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự, bên nào nộp đơn đăng ký trước có thể có lợi thế nhất định trong việc chứng minh quyền sở hữu. Quyền sở hữu nhãn hiệu tại Hoa Kỳ chủ yếu dựa trên việc sử dụng thực tế trong thương mại, nhưng đăng ký nhãn hiệu vẫn rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi và tạo lợi thế pháp lý trong trường hợp xảy ra tranh chấp.
Việt Nam cũng áp dụng tương tự, song chủ yếu vẫn nghiêng nhiều hơn về hướng ai là bên nộp đơn đăng ký trước để giải quyết tranh chấp về chủ sở hữu. Với nguyên tắc này, nhiều bên đã chủ động nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho các tác phẩm, thương hiệu nổi tiếng nước ngoài trước khi chủ sở hữu đó đăng ký tại Việt Nam, góp phần làm xấu hình ảnh quốc gia, gây thiệt hại cho sự phát triển của xã hội.
Tại thị trường Việt Nam, nguyên tắc nộp đơn trước được hưởng quyền trước cũng gây tổn hại đến cho chủ sở hữu tác phẩm. Không chỉ các bên đã sử dụng nhãn hiệu trong thương mại từ trước, mà các bên đã sử dụng tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả từ trước cũng yếu thế trước bên nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trước.
Trước đây, khi chưa có quy định rõ ràng về việc không được đăng ký nhãn hiệu cho các tác phẩm đã được bảo hộ quyền tác giả, thẩm định viên tại Cục Sở hữu trí tuệ buộc phải tuân theo nguyên tắc đăng ký đầu tiên, cấp đăng ký cho các nhãn hiệu có dấu hiệu sao chép từ các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả trước đó.
Quy định mới xác định và phân biệt rõ việc bảo hộ theo bản quyền hay nhãn hiệu
Luật Sở hữu trí tuệ 2022 bổ sung quy định tại khoản 7 Điều 73 về “dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm, trừ trường hợp được phép của chủ sở hữu tác phẩm đó” sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.
Quy định này được đánh giá sẽ góp phần làm giảm tình trạng đầu cơ nhãn hiệu tại Việt Nam dựa trên nguyên tắc nộp đơn đầu tiên đối với các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Cụ thể, các dấu hiệu là bản sao các tác phẩm sẽ không được đăng ký, ngăn chặn các cá nhân hoặc tổ chức đánh cắp hoặc chiếm đoạt các sáng tạo của người khác để trục lợi.
Với quy định này, Luật Sở hữu trí tuệ cũng trung hòa một phần hai nguyên tắc nộp đơn đầu tiên và sử dụng đầu tiên tại Việt Nam. Cục Sở hữu trí tuệ sẽ có cơ sở để từ chối các đơn đăng ký nhãn hiệu cho dấu hiệu là bản sao, sao chép của các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, điều mà trước kia họ không thể làm. Ngoài ra, tác giả sở hữu quyền đối với tác phẩm của mình cũng có cơ sở để phản đối nhãn hiệu đang xét duyệt, yêu cầu hủy bỏ hiệu lực đối với nhãn hiệu đã được đăng ký nếu nó là bản sao tác phẩm của họ.
Tuy nhiên, vì chưa có các văn bản hướng dẫn chi tiết khoản 7 Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ 2022 mà hiện tại, các lợi ích nêu trên vẫn chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết, chưa có khả năng áp dụng trong thực tiễn.
Điển hình, phạm vi của ‘bản sao tác phẩm’ là gì chưa có quy định cụ thể. Việc sao chép bao phần tác phẩm gốc sẽ được xác định là bản sao? Liệu điều khoản này nghĩa là phải sao chép hoàn toàn 100% tác phẩm mới không được đăng ký nhãn hiệu? Nếu là vậy thì chắc chắn quy định này chưa thể giải quyết được vấn nạn đầu cơ và các khó khăn khác vì các bên đầu cơ chắc chắn sẽ thực hiện sửa đổi trước khi đăng ký nhãn hiệu.
Khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2022 quy định sao chép là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Liệu định nghĩa này có áp dụng vào khoản 7 Điều 73?
Nếu bổ sung, sửa đổi thành các tác phẩm được sao chép một phần cũng không thể được đăng ký nhãn hiệu thì cần làm rõ tỉ lệ phần bị sao chép cụ thể thì được xác định là không thể đăng ký. Nếu không làm rõ các yếu tố này để xác định ranh giới phạm vi bảo hộ quyền tác giả tương quan với việc đăng ký nhãn hiệu thì quy định này vẫn chỉ dừng lại ở ‘vùng xám’ pháp lý, tức còn phụ thuộc phần lớn vào quan điểm của thẩm định viên.
Trong thực tiễn áp dụng, trong những năm gần đây, gần như không có trường hợp nào bên đăng ký với mục đích đầu cơ ‘bê nguyên’ tác phẩm đã được bảo hộ để đăng ký nhãn hiệu. Nếu thế thì việc phát hiện ra sự trùng khớp là rất đơn giản, không tạo ra vấn đề lớn. Đáng quan ngại là thông thường, họ sẽ sửa đổi một chút để đơn đăng ký nhãn hiệu qua được quá trình thẩm định.
Dù có cơ chế mới cung cấp cơ sở pháp lý, Cục Sở hữu trí tuệ và các chuyên viên lại phải giải quyết vấn đề mới khi ngoài việc kiểm tra cơ sở dữ liệu nhãn hiệu để đối chiếu, họ còn phải kiểm tra cơ sở dữ liệu về quyền tác giả tại Cục Bản quyền tác giả Việt Nam để kiểm tra khả năng xâm phạm. Hiện nay, hai cơ quan này không có hệ thống dữ liệu thống nhất, dẫn đến công việc gia tăng gấp đôi, lại còn khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
Thêm vào đó, vì tính chất được bảo hộ mà không phải đăng ký, có khả năng nhất định một nhãn hiệu được nộp đơn đăng ký vào năm 2024 có thể phải bị từ chối do là bản sao của một tác phẩm được tạo nên từ 2020 mà chưa công bố công khai, chưa có dữ liệu để đối chiếu.
Quy định mới bổ sung khung pháp lý hiệu quả để ngăn chặn tình trạng đầu cơ, mâu thuẫn giữa hai loại tài sản trí tuệ phổ biến nhất tại Việt Nam song nó hiện vẫn đang dừng ở mức lý thuyết, chưa có khả năng triển khai áp dụng do còn nhiều vấn đề cần giải quyết.
Khuyến nghị
Do đó, để bảo vệ quyền lợi của mình, chiến lược mà các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nên áp dụng vẫn là chủ động thực hiện các biện pháp pháp lý để bảo hộ cho tác phẩm hoặc nhãn hiệu của mình dưới cả hai dạng hình thức là quyền tác giả và nhãn hiệu nếu tác phẩm của họ đủ điều kiện đăng ký.
Đây là giải pháp tối ưu để giảm thiểu các rủi ro pháp lý trong tương lai, đồng thời thiết lập một nền tảng pháp lý vững chắc hơn nhằm bảo vệ tài sản trí tuệ và ngăn chặn hiệu quả các hành vi vi phạm. Do tính chất tác phẩm khó được bảo hộ, thực thi hơn, đặc biệt khi không có chứng cứ xác thực về quá trình sáng tạo, chủ sở hữu tác phẩm nên tiến hành đăng ký nhãn hiệu cho tác phẩm trước do nhãn hiệu có cơ chế bảo hộ và thực thi hiệu quả hơn.
Ngoài ra, tác giả cũng nên chủ động thành lập và kiên định tư tưởng cần ghi chép cẩn thận quá trình sáng tạo và sự tồn tại của tác phẩm có thể được bảo hộ quyền tác giả. Các bằng chứng này có thể bao gồm ngày sáng tác, bản dự thảo, bản phác thảo, hoặc bất kỳ bằng chứng nào khác thể hiện sự phát triển và tính nguyên gốc của tác phẩm.
Điều quan trọng là tác giả phải tạo ra và sở hữu những chứng cứ không thể phủ nhận để chứng minh rằng tác phẩm đã tồn tại trước ngày nộp đơn của nhãn hiệu đang bị tranh chấp.
ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].
Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về Luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và quốc tế.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN