Khi đại dịch Covid-19 kéo đến ở Việt Nam, người lao động luôn lo lắng rằng họ có thể bị sa thải do công ty không có khả năng trả lương cho họ. Càng đáng lo hơn nếu người lao động bị nhiễm virus Covid-19 và trở thành F0, không thể làm việc trực tiếp tại công ty trong thời gian dài. Họ sợ rằng họ có thể bị sa thải và bị thay thế nếu họ không thể hồi phục nhanh và đi làm. Vậy, nếu việc đó xảy ra, những quyền lợi người lao động F0 cần biết khi xảy ra mâu thuẫn với công ty tại Việt Nam là gì?
Ngay cả khi người lao động không bị nhiễm virus, do gánh nặng quá lớn đối với doanh nghiệp, nhiều bên đã chọn cách sa thải hàng loạt người lao động để giữ áp lực ở mức tối thiểu.
Vì vậy, không lạ khi mà khi người lao động bị nhiễm Covid-19, nhiều doanh nghiệp cũng đã coi đây là cơ hội để sa thải những người lao động này vì dù sao họ cũng không thể làm việc trong thời gian tới.
Tuy nhiên, trên thực tế, nếu người lao động bị sa thải vì Covid-19 thì việc chấm dứt hợp đồng lao động có thể bị coi là bất hợp pháp theo pháp luật.

Vậy, người lao động có quyền lợi gì khi mâu thuẫn với doanh nghiệp về vấn đề này? Cơ sở pháp lý là gì?
Công ty có thể sa thải một người lao động vì Covid-19 không?
Theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động chỉ được sa thải người lao động nếu có một trong 7 lý do sau đây:
- Người lao động thường không hoàn thành công việc.
- Người lao động đã được điều trị ốm đau, tai nạn nhưng chưa phục hồi khả năng lao động.
- Trong trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, đại dịch, địch họa, cơ quan có thẩm quyền phải di chuyển, cắt giảm biên chế, người sử dụng lao động phải sa thải người lao động sau khi đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
- Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật Lao động;
- Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu quy định tại Điều 169 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
- Người lao động nghỉ việc không có lý do chính đáng trong thời gian ít nhất 05 ngày làm việc liên tục;
- Người lao động không cung cấp thông tin trung thực trong thời gian giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Bộ luật Lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng.
Đối chiếu với các quy định trên, có thể thấy, việc người lao động bị nhiễm Covid-19 không phải là căn cứ pháp lý để người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Do đó, hành vi sa thải một người lao động vì nhiễm Covid-19 nói riêng cũng như các bệnh nói chung là hoàn toàn vi phạm pháp luật.
Quyền của người lao động khi bị sa thải do virus Covid-19
Theo quy đinh, hành vi sa thải người lao động do Covid-19 là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Vì vậy, để đòi lại quyền lợi của mình, người lao động có thể gửi đơn khiếu nại đến ban lãnh đạo công ty. Việc khiếu nại có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc trực tiếp, nêu rõ lý do khiếu nại.
Nếu quá thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người lao động không đồng ý với cách giải quyết của công ty thì người lao động có quyền khiếu nại đến Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi công ty đặt trụ sở chính.
Ngoài biện pháp khiếu nại, người lao động có thể trực tiếp khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục dân sự về việc bị đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Căn cứ vào các Điều 32, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đặt trụ sở chính.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW*** |
|
|
|
||
|
||
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam |
|
|
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
Tư vấn sở hữu trí tuệ |