Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng đáng lo ngại của các vụ đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu. Đây là hành vi đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với những thương hiệu nổi tiếng không với mục đích sử dụng hợp pháp mà nhằm chiếm đoạt quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp khác hoặc nhằm thu lợi cá nhân thông qua các hành vi bất hợp pháp như tống tiền, đe dọa độc chiếm quyền sử dụng đối với tài sản trí tuệ.
Khái niệm về hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại Việt Nam
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một tổ chức hoặc cá nhân này với hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức hoặc cá nhân khác. Việc đăng ký nhãn hiệu không chỉ giúp doanh nghiệp bảo vệ thương hiệu của mình trước sự xâm phạm mà còn là công cụ hữu hiệu để xây dựng lòng tin của người tiêu dùng, phát triển thị trường và bảo vệ quyền lợi kinh doanh.
Việc đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho cả doanh nghiệp chính chủ lẫn thị trường nói chung. Trước tiên, nó làm cho các doanh nghiệp gốc muốn mở rộng hoạt động kinh doanh đến thị trường khác gặp khó khăn trong việc sử dụng tên thương hiệu của mình, buộc họ phải đối mặt với các tranh chấp pháp lý phức tạp và tốn kém.
Ngoài ra, hiện tượng này còn làm suy yếu hệ thống pháp lý về sở hữu trí tuệ, khiến việc quản lý và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trở nên phức tạp hơn. Hơn nữa, khi các nhãn hiệu giả mạo, không có giá trị pháp lý lưu hành trên thị trường, người tiêu dùng có thể bị nhầm lẫn, mất niềm tin vào các thương hiệu chính thống, từ đó làm giảm sự tin cậy đối với thị trường.
Khung pháp lý hiện hành về nhãn hiệu tại Việt Nam
Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 số 07/2022/QH15 (“Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022”), nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt với nhãn hiệu của các tổ chức, cá nhân khác và không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với những nhãn hiệu đã được đăng ký trước đó cùng một số đối tượng khác như Quốc kỳ, Quốc huy.
Bên cạnh đó, việc đăng ký nhãn hiệu còn đòi hỏi người nộp đơn phải có ý định sử dụng thực tế và trung thực, không được đăng ký với dụng ý xấu. Khái niệm dụng ý xấu này là một khái niệm mới được đưa vào Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022. Tuy nhiên, dù có quy định song nó vẫn không được định nghĩa cụ thể, cũng như có các quy định chi tiết nhằm ngăn chặn hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu.
Điển hình, quy trình xét duyệt đăng ký hiện nay vẫn còn nhiều lỗ hổng như không có cơ chế kiểm tra việc người nộp đơn dự định sử dụng nhãn hiệu trong thương mại như thế nào, với quy mô và phạm vi tại khu vực nào. Điều này dẫn đến tình trạng người nộp đơn có thể lợi dụng để chiếm đoạt nhãn hiệu của doanh nghiệp nổi tiếng khác.
Việc xác định dụng ý xấu trong quá trình đăng ký nhãn hiệu là một thách thức không nhỏ cho các cơ quan quản lý. Dụng ý của người đăng ký thường không được thể hiện rõ ràng, và việc chứng minh người đăng ký có mục đích xấu đôi khi phụ thuộc vào các bằng chứng khó thu thập. Điều này tạo ra khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp pháp lý phù hợp.
Hơn nữa, hệ thống tòa án và cơ quan quản lý tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc xử lý các tranh chấp nhãn hiệu, bao gồm quá trình dài và phức tạp, cùng với áp lực ngày càng tăng từ số lượng vụ việc ngày một nhiều.
Giải pháp ứng phó việc đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại Việt Nam
Khi nhận được thông tin có bên đăng ký nhãn hiệu của mình với dụng ý xấu, các doanh nghiệp Việt Nam có thể khiếu nại hoặc khởi kiện, yêu cầu cơ quan chức năng xác định tính hợp pháp của nhãn hiệu và bảo vệ quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, một trong những điều kiện tiên quyết để đảm bảo việc khởi kiện thành công là doanh nghiệp cần phải chứng minh được bên đăng ký đã đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu.
Căn cứ khoản 2 Điều 34 Thông tư 23/2023/TT-BKHCN, văn bằng bảo hộ nhãn hiệu bị hủy bỏ hiệu lực do người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu trong trường hợp:
a) Có căn cứ cho rằng, tại thời điểm nộp đơn, người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc nhãn hiệu nổi tiếng tại các nước khác cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự; và
b) Việc đăng ký này nhằm lợi dụng danh tiếng, uy tín của nhãn hiệu đó để thu lợi; hoặc chủ yếu nhằm mục tiêu bán lại, cấp phép hoặc chuyển giao quyền đăng ký cho người có các nhãn hiệu nêu tại điểm a khoản này; hoặc nhằm mục tiêu ngăn chặn khả năng gia nhập thị trường của người có các nhãn hiệu nêu tại điểm a khoản này để hạn chế cạnh tranh; hoặc các hành vi trái với tập quán thương mại lành mạnh khác.
Theo đó, trường hợp người nộp đơn tại thời điểm nộp đơn ‘biết hoặc có cơ sở để biết’ là khi nhãn hiệu ban đầu đã được đăng ký phải đã được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc nước ngoài cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ.
Trong trường hợp nhãn hiệu ban đầu kia chỉ mở rộng danh tiếng sau một thời gian nhất định kể từ khi bên đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam gửi đơn đăng ký thì sẽ không thỏa mãn điều kiện này. Ngoài ra, việc biết hoặc có cơ sở để biết cũng mang tính chung chung, mơ hồ, còn phụ thuộc vào góc nhìn của cơ quan chức năng và tình hình thực tế của bên đăng ký, bởi lẽ danh tiếng của nhãn hiệu trước có thể phổ biến ở một khu vực nhưng có thể không được biết đến rộng rãi tại khu vực của bên đăng ký.
Tiêu chí về động cơ đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu có thể sẽ minh bạch hơn. Điều này là bởi lẽ các hành vi như lợi dụng danh tiếng để bán lại, gây sức ép với chủ sở hữu nhãn hiệu đích thực, độc chiếm thị trường, ngăn chặn các bên khác gia nhập thị trường rất dễ để phân biệt và phát hiện, đặc biệt khi có đơn đề nghị điều tra hoặc hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ của chủ sở hữu nhãn hiệu đích thực.
Để có cơ sở khẳng định rằng bên đăng ký nhãn hiệu nộp đơn hoặc đã đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu thì chủ sở hữu nhãn hiệu đích thực cần chủ động tìm kiếm chứng cứ, tài liệu để chứng minh cả hai điều kiện trên. Nếu chỉ đủ đáp ứng một trong hai điều kiện, lập luận sẽ bị coi là không đủ cơ sở, qua đó bị bác bỏ.
Theo đó, dù chứng minh được việc bên nộp đơn với dụng ý xấu đăng ký cho mục đích không trung thực, tư lợi dựa trên danh tiếng của chủ sở hữu nhãn hiệu đích thực thì họ cũng cần chứng minh được rằng bên đăng ký cần phải biết hoặc có cơ sở để biết đến sự tồn tại của nhãn hiệu ban đầu. Điều này là rất khó khi xét đến sự phân bố không đồng đều, không có chuẩn chung giữa các khu vực địa lý về khả năng tiếp cận thông tin, cũng như độ hiển thị của nhãn hiệu ban đầu.
Dẫu vậy, dù khó khăn song quy định này cũng là cần thiết để phân biệt với sai sót cơ bản rằng người nộp đơn nộp đơn trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu khác hoàn toàn vô ý và không có mục đích sâu xa gì, việc mà rất phổ biến tại thị trường Việt Nam hiện nay. Trong các trường hợp đấy, đơn đăng ký chỉ bị từ chối mà không có áp dụng xử phạt hay tra xét sâu hơn gì về dụng ý của người nộp đơn.
Kết luận
Tóm lại, tình trạng đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu đang trở thành một thách thức lớn đối với cả hệ thống pháp lý và các doanh nghiệp tại Việt Nam. Việc giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ từ phía cơ quan chức năng mà còn từ chính các doanh nghiệp, trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình thông qua các biện pháp chủ động, như giám sát, khiếu nại và thu thập chứng cứ.
Một hệ thống pháp lý minh bạch, chặt chẽ hơn sẽ góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi này, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp và đảm bảo sự phát triển bền vững cho thị trường.
Để đảm bảo quyền lợi của mình, các doanh nghiệp nên chủ động thực hiện các biện pháp phòng vệ như đăng ký nhãn hiệu từ trước cho các tài sản trí tuệ của mình, kể cả khi các tài sản đó có thể không được sử dụng vào thời điểm hiện tại. Trong trường hợp phát hiện có bên đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu nhãn hiệu tương tự của mình, doanh nghiệp nên liên hệ với một công ty luật uy tín và chuyên môn trong lĩnh vực nhãn hiệu, xử lí xâm phạm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và quốc tế để nhận được hỗ trợ kịp thời.
ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].
Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về Luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và quốc tế.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN