thách thức về tính pháp lý của hợp đồng điện tử xuyên biên giới trong kỉ nguyên công nghệ tại Việt Nam, thách thức về tính pháp lý của hợp đồng điện tử xuyên biên giới trong kỉ nguyên công nghệ, tính pháp lý của hợp đồng điện tử xuyên biên giới trong kỉ nguyên công nghệ tại Việt Nam, hợp đồng điện tử xuyên biên giới trong kỉ nguyên công nghệ tại Việt Nam,

Thách thức về tính pháp lý của hợp đồng điện tử xuyên biên giới trong kỉ nguyên công nghệ tại Việt Nam

Trong thời đại công nghệ điện tử phát triển cấp tốc, giới doanh nghiệp Việt Nam đã có khả năng tiếp xúc những cơ hội mới và đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức khi áp dụng công nghệ trong kinh doanh. Trong bối cảnh xã hội dần chuyển đổi thành một xã hội số, hợp đồng điện tử xuyên biên giới với tính tiện lợi, đơn giản hóa cao đã trở thành một phần quan trọng trong nền kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, việc ứng dụng hợp đồng điện tử vẫn tồn tại nhiều rủi ro về tính pháp lý, đặc biệt là khi các giao dịch xuyên biên giới không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn bao quát toàn cầu.

Tại Việt Nam, dù đi sau các quốc gia phương Tây trong lĩnh vực công nghệ nhưng nguyên nhân chính yếu nhất cản trở việc Việt Nam phổ biến, phát triển mạnh việc ứng dụng hợp đồng điện tử trong xã hội không đến từ sự lạc hậu trong công nghệ mà ở sự mâu thuẫn hoặc không đầy đủ trong hệ thống pháp luật quy định về hợp đồng điện tử.

Chính vì các yếu tố pháp lý còn chưa rõ ràng nên theo thống kê trong sách trắng Thương mại điện tử 2021 của Bộ Công Thương, hiện chỉ có 1/3 doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ đã nghiên cứu ứng dụng hợp đồng điện tử trong thương mại quốc tế. Đáng chú ý, con số chỉ thể hiện các giao dịch giữa doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài vốn thường đặc biệt khó khăn do các trở ngại địa lý, nhưng không có số liệu thống kê về các giao dịch nội bộ giữa các doanh nghiệp Việt Nam.

Đầu năm 2023, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định 466/QĐ-BTTTT đặt mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam sẽ có trên 80% doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử nhằm triển khai phát triển nền kinh tế kỹ thuật công nghệ điện tử cao, đồng thời đạt được các mục tiêu như bảo vệ môi trường, tiết kiệm nhân lực, tăng cường bảo mật thông tin,…  

Trước thách thức ngày càng tăng về tính pháp lý của hợp đồng điện tử xuyên biên giới, Việt Nam cần phải xem xét và đánh giá các khía cạnh pháp lý, từ việc xác nhận và chứng minh tính hợp lệ của các giao dịch, bao gồm các khía cạnh như chủ thể, hình thức và ý chí của hợp đồng điện tử đến các khía cạnh như phương thức giải quyết tranh chấp, việc hoàn thiện luật pháp quy định về hợp đồng điện tử,…

Bài viết sau sẽ khám phá những khía cạnh pháp lý phức tạp của thách thức này và đề xuất một số cách tiếp cận mới để hệ thống pháp luật Việt Nam có thể thích ứng với sự đổi mới không ngừng của công nghệ và thương mại quốc tế.

Quy định pháp lý về hợp đồng điện tử

Ngoại trừ việc được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu trên không gian mạng, hợp đồng điện tử có tính chất tương tự với một hợp đồng mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ thông thường trong giao dịch dân sự.

Trong thời đại công nghệ phát triển, hợp đồng điện tử trong thương mại điện tử có nhiều ưu điểm hơn hợp đồng giấy thông thường, như nâng cao tính minh bạch, tiện lợi và đảm bảo an toàn trong giao dịch điện tử.

Dù đã có quy định về giao dịch điện tử cũng như hợp đồng điện tử từ gần 20 năm trước, nhưng việc thực thi, giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng điện tử hiện vẫn chủ yếu được áp dụng theo như quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH13 (“Bộ luật Dân sự 2015”).

Cụ thể, khoản 1 Điều 34 Luật Giao dịch điện tử 2023 số 20/2023/QH15 (“Luật Giao dịch điện tử 2023”) quy định hợp đồng điện tử được giao kết hoặc thực hiện từ sự tương tác giữa một hệ thống thông tin tự động với người hoặc giữa các hệ thống thông tin tự động với nhau không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì không có sự kiểm tra hay can thiệp của con người vào từng hành động cụ thể do các hệ thống thông tin tự động thực hiện hay vào hợp đồng.

Ngoài ra, việc giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng điện tử căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật Giao dịch điện tử 2023.

Tuy nhiên, vì không có quy định chi tiết ngoài khái niệm và tính pháp lý nên việc giải quyết một số vướng mắc liên quan đến áp dụng hợp đồng điện tử trong thương mại đã trở nên khó khăn. Đơn cử, Luật Giao dịch điện tử 2023 không có quy định về tính hiệu lực của hợp đồng điện tử vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để xác lập, thiết lập giao dịch dân sự.

Chính vì vậy mà khi có nhu cầu liên quan, các cơ quan có thẩm quyền thường đối chiếu với ‘luật gốc’ của các vấn đề pháp lý tại Việt Nam là Bộ luật Dân sự 2015. Điển hình, Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Nếu hợp đồng điện tử liên quan đến việc mua bán sản phẩm, hàng hóa thì cần đối chiếu với khái niệm và các quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng mua bán tài sản. Nếu là hợp đồng điện tử liên quan đến giao dịch dịch vụ thì cần đối chiếu đến quy định từ Điều 513 đến Điều 521 Bộ luật Dân sự 2015.

Về vấn đề hiệu lực của hợp đồng điện tử như ví dụ trên thì sẽ được đối chiếu tới quy định tại Điều 401 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hiệu lực của hợp đồng.

Thách thức trong việc xác lập quan hệ thông qua hợp đồng điện tử

Trong bối cảnh pháp lý hiện tại ở Việt Nam, việc xác lập quan hệ thông qua hợp đồng điện tử bao gồm ba vấn đề chủ đạo, gồm khó khăn trong việc xác định chủ thể hợp đồng điện tử trong thương mại điện tử, đáp ứng điều kiện về hình thức hợp đồng điện tử, đáp ứng điều kiện về ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng điện tử.

Xác định chủ thể hợp đồng điện tử trong thương mại điện tử

Việc xác định chủ thể hợp đồng điện tử có nhiều điểm khác biệt so với hợp đồng vật lí thông thường. Điển hình, vì chủ yếu được áp dụng khi các đối tượng muốn giao kết hợp đồng điện tử ở xa, khó tiếp cận nên các bên liên quan sẽ khó có khả năng xác định năng lực pháp luật của các chủ thể.

Việc xác định các đối tượng ký kết có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, tự nguyện thực hiện giao kết hợp đồng gần như không thể được kiểm chứng khi các bên chỉ làm việc với nhau thông qua mạng Internet. Tương tự, chất lượng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cũng chỉ được kiểm chứng thông qua sự tin tưởng, uy tín của các chủ thể mà không thể được đối chiếu bởi cơ quan có thẩm quyền hoặc một bên thứ ba có khả năng thẩm định, tư vấn pháp lý.

Ngoài ra, nếu được sử dụng nhằm xác lập quan hệ hợp đồng trên các sàn thương mại điện tử vốn là xu hướng chủ đạo tại Việt Nam hiện nay, hợp đồng này có thể có sự tham gia của các bên thứ ba là các sàn thương mại điện tử đóng vai trò trung gian, cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để bên bán và bên mua kết nối.

Chính vì sự phức tạp này mà sự nhầm lẫn giữa các chủ thể giao kết hợp đồng đã xảy ra. Một phương án khả thi giúp các chủ thể nhận thức rõ được đối tượng tham gia hợp đồng là xem xét tư cách cá nhân/pháp nhân của đối tượng cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ trên sàn thương mại điện tử. Nếu xác định rằng đối tượng này cho phép các bên khác sử dụng sàn thương mại điện tử thông qua việc thu phí quản lý thì đó chính là bên trung gian, không phải đối tượng mua hoặc bán của hợp đồng điện tử.

Việc ứng dụng hợp đồng điện tử với sự tham gia của các bên trung gian sẽ giúp đảm bảo cho bên chịu thiệt hại trong các giao dịch khi bên trung gian sẽ là đối tượng chịu trách nhiệm liên đới nếu có sai sót, hành vi lừa đảo diễn ra.

Đáp ứng điều kiện về hình thức hợp đồng điện tử

Khoản 1 Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hình thức giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.”

Đối chiếu tương ứng đến quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Giao dịch điện tử 2023 rằng thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức văn bản điện tử, tài liệu điện tử, chứng thư điện tử, chứng từ điện tử, hợp đồng điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và hình thức trao đổi dữ liệu điện tử khác theo quy định của pháp luật thì hợp đồng điện tử được công nhận là hợp đồng bằng văn bản được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu và giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận. Qua đó, có thể nhận định rằng hình thức pháp lý của hợp đồng điện tử có thể được xác định như hợp đồng trong giao dịch dân sự.

Điển hình, thay vì các bên thực hiện ‘ký tươi’ để chứng thực tính hợp pháp của hợp đồng thì các chủ thể giao kết hợp đồng có thể sử dụng chữ ký số thay thế cho hợp đồng điện tử để xác lập quan hệ hợp đồng đối với các trường hợp bắt buộc phải có chữ ký xác nhận theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vì không có sự tiếp xúc trực tiếp nên công đoạn chứng thực, ký kết trước mặt công chứng viên hoặc bộ tư pháp sẽ không thể được thực hiện.

Thay vào đó, các chủ thể sẽ áp dụng Nghị định 130/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định 26/2007/NĐ-CP về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.

Chứng thực chữ ký số là quá trình xác nhận tính toàn vẹn của thông tin trên môi trường điện tử. Được dùng phổ biến trong các giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử, giao dịch ngân hàng,… việc chứng thực chữ ký số đảm bảo thông tin không bị sửa đổi sau khi ký và xác nhận bởi cá nhân hoặc tổ chức tạo chữ ký.

Nếu không được chứng thực khi các bên đã có thỏa thuận về chữ ký số hoặc trong các trường hợp văn bản là hợp đồng điện tử bắt buộc cần có chữ ký số được chứng thực, hợp đồng điện tử sẽ bị vô hiệu về mặt hình thức.

Đáng chú ý, trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, một khái niệm mới về hợp đồng điện tử là hợp đồng thông minh (smart contract) đã dần được thử nghiệm tại các quốc gia phát triển và dần du nhập vào Việt Nam. Đây là một loại hợp đồng điện tử ứng dụng công nghệ blockchain tiên tiến, có khả năng bảo mật cao và nhiều ưu điểm như ẩn danh, ổn định, đối chiếu, truy vết,…

Tuy nhiên, vì blockchain hiện chưa được quy định trong bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào tại Việt Nam nên việc ứng dụng công nghệ này hoặc sử dụng các loại tài sản liên quan như Bitcoin trong thanh toán vẫn còn rất hạn chế, nằm ở vùng xám pháp lý. Chính vì vậy mà dù có nhiều ưu điểm vượt trội so với hợp đồng điện tử thông thường, các doanh nghiệp vẫn cần cân nhắc rủi ro khi ứng dụng hợp đồng thông minh trong giao dịch.

Đáp ứng điều kiện về ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng điện tử

Đối với một hợp đồng thông thường, việc chứng minh được các chủ thể tham gia ký kết có khả năng thực hiện hành vi dân sự gồm xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình, có hoàn toàn kiểm soát đối với quyết định của mình được hiểu là ý chí của chủ thể khi giao kết hợp đồng.

Sự tự nguyện về ý chí là yếu tố quan trọng nhất trong quan hệ dân sự. Các bên không được cưỡng đoạt, đe dọa hoặc cưỡng ép bên khác thực hiện việc ký kết hợp đồng. Yếu tố này cũng được áp dụng đối với hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, việc xác định các chủ thể hoàn toàn có ý chí tự do khi ký kết hợp đồng điện tử sẽ còn khó hơn hợp đồng thông thường khi các bên không tiếp xúc trực tiếp, hoặc không có cơ quan có thẩm quyền nào giám sát khả năng thực hiện của các bên.

Nếu hợp đồng điện tử đã ký kết được xác định là được thực hiện khi có hành vi lừa dối, cưỡng đoạt, cưỡng ép thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu theo như quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015.

Tương tự như quy định giao dịch dân sự bị vô hiệu do có hành vi lừa dối, cưỡng ép, việc xác định các chủ thể có nhận thức đầy đủ về các khía cạnh khác trong hợp đồng điện tử cũng sẽ trở thành một vấn đề khó khăn, dễ dẫn đến khả năng Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Đây là một vấn đề đáng quan ngại cần được giải quyết nhằm lan tỏa, phổ biến tính tiện lợi cũng như các công dụng khác của hợp đồng điện tử tại Việt Nam.

Đề xuất xây dựng luật riêng biệt về tính pháp lý của hợp đồng điện tử

Một vấn đề pháp lý đáng chú ý về hợp đồng điện tử là việc chưa có quy định về công chứng hợp đồng điện tử. Việc công chứng hợp đồng điện tử khác so với việc chứng thực chữ ký số.

Việc công chứng hợp đồng, giao dịch dân sự được thực hiện bởi công chứng viên theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 số 53/2014/QH13 (“Luật Công chứng 2014”) nhằm xác định tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt.

Theo đó, hợp đồng điện tử với giá trị pháp lý như hợp đồng bằng văn bản cần phải được công chứng để đảm bảo tính chính xác của nội dung. Việc xác nhận sự chính xác của nội dung là điều đặc biệt quan trọng trong các giao dịch thương mại với doanh nghiệp nước ngoài.

Nghị định 85/2021/NĐ-CP bổ sung Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử đã quy định về dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử song Luật công chứng 2014 chưa đề cập đến việc công chứng hợp đồng điện tử.

Điều này tạo nên sự mâu thuẫn, chưa thống nhất trong các văn bản pháp lý, dẫn đến việc các cơ quan có thẩm quyền không thể chủ động áp dụng luật trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng điện tử.

Đây chỉ là một trong các vấn đề nổi bật bắt nguồn từ việc chưa có một hệ thống pháp lý quy định chi tiết các vấn đề về hợp đồng điện tử hoặc giao dịch trên không gian mạng. Áp dụng bài học kinh nghiệm từ nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, có thể thấy rằng Việt Nam chưa thể có xây dựng, triển khai hoặc ứng dụng sâu rộng hợp đồng điện tử trong thương mại khi chưa có một hành lang pháp lý vững chắc.

Các cá nhân cũng như doanh nghiệp đều vướng phải tâm lí thận trọng, không chắc chắn, lo ngại đối diện với hậu quả pháp lý khi ứng dụng công nghệ mới. Thái độ tiếp cận này đã khiến cho Việt Nam mất đi nhiều cơ hội phát triển cấp tốc, tiết kiệm thời gian, chi phí, khả năng ứng phó các nguy cơ khiến việc ký kết hợp đồng vật lí trở nên khó khăn như thời điểm đại dịch Covid-19.

Tháng 6 năm 2023, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Luật Giao dịch điện tử 2023 sửa đổi gồm 7 chương, 54 điều với một số điểm mới so với Luật Giao dịch điện tử 2005 số 51/2005/QH11, chủ yếu quy định về việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử.

Đáng chú ý, Luật Giao dịch điện tử 2023 chỉ quy định việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử, không quy định nội dung, điều kiện, phương thức của giao dịch, cũng như không có quy định cụ thể nếu hợp đồng điện tử thuộc một lĩnh vực cụ thể khác. Trong trường hợp có sự chồng chéo, việc giải quyết sẽ được áp dụng theo luật liên quan.

Việc không quy định cụ thể giúp làm giảm khả năng mâu thuẫn nhưng cũng để lại nhiều vấn đề như không được chi tiết, khuyết thiếu các quy định cụ thể về hợp đồng điện tử và giao kết hợp đồng điện tử. ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal. xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].

Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về soạn thảo hợp đồng và rà soát hợp đồng.

BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
Công ty Luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty Luật ASL LAW***
Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
Contact Me on Zalo
+84982682122
WhatsApp chat