Trích lập dự phòng rủi ro trong ngành ngân hàng là một quy định theo quy tắc kế toán quốc tế (IFRS) và các quy định cụ thể của các cơ quan quản lý tài chính.
Khi một ngân hàng cho vay và khoản vay đó trở thành nợ từ nhóm 2 trở đi, ngân hàng sẽ phải trích lập một phần dự phòng rủi ro tương ứng. Mục đích của việc trích lập dự phòng rủi ro trong ngành ngân hàng là đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn dự trữ để đối phó với các khoản nợ không trả được và các rủi ro khác trong quá trình kinh doanh.
Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro thường được xác định dựa trên các yếu tố như loại khoản vay, loại khách hàng, loại tài sản đảm bảo, tình trạng tín dụng và các yếu tố rủi ro khác. Các quy định về trích lập dự phòng rủi ro thường được quy định cụ thể bởi các cơ quan quản lý tài chính và tổ chức quốc tế như Ngân hàng Trung ương và Hiệp hội Kế toán Quốc tế (IASB).
Việc trích lập dự phòng rủi ro giúp ngân hàng có khả năng về tài chính để đối phó với các rủi ro tiềm ẩn và đảm bảo tính ổn định của ngân hàng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Ngoài ra, nó cũng đảm bảo tính khách quan và minh bạch trong báo cáo tài chính của ngân hàng.
Quy định về trích lập dự phòng rủi ro tại Việt Nam
Ngày 30 tháng 7 năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư 11/2021/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Tỷ lệ trích lập dự phòng được xác định cụ thể theo 5 nhóm nợ. Khoản 2 Điều 12 Thông tư 11 quy định tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể như sau:
a) Nhóm 1: 0% (Nhóm nợ tiêu chuẩn)
b) Nhóm 2: 5% (Nhóm nợ cần chú ý)
c) Nhóm 3: 20% (Nhóm nợ dưới chuẩn)
d) Nhóm 4: 50% (Nhóm nợ nghi ngờ)
đ) Nhóm 5: 100% (Nhóm nợ có khả năng mất vốn)
Trong đó, nợ từ nhóm 3 trở đi sẽ là nợ xấu tuy nhiên từ nhóm 2, ngân hàng, tổ chức tín dụng đã phải trích lập dự phòng cụ thể, dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể.
Ngoài dự phòng cụ thể, ngân hàng, tổ chức, tín dụng cũng phải trích lập một khoản dự phòng chung là khoản dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể.
Dự phòng chung được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 căn cứ theo quy định tại Điều 13 Thông tư 11.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các khoản sau đây sẽ không được tính vào các khoản nợ cần trích lập dự phòng chung:
1. Tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật và tiền gửi tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài.
2. Khoản cho vay, mua có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
3. Khoản mua kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước.
4. Khoản mua bán lại trái phiếu Chính phủ theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 1 Thông tư 11.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được hướng dẫn về dịch vụ tư vấn pháp lý về tài chính và ngân hàng tại Việt Nam:
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN