bảo hiểm xã hội tự nguyện kém hấp dẫn so với bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Việt Nam , bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Việt Nam , bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Việt Nam , sự suy giảm của bảo hiểm xã hội tự nguyện Việt Nam, sự suy giảm của chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam,

(Việt Nam) Bảo hiểm xã hội tự nguyện kém hấp dẫn so với bảo hiểm xã hội bắt buộc – Không chỉ đơn giản vì mức phải đóng cao hơn

Bảo hiểm xã hội tự nguyện, so với bảo hiểm xã hội bắt buộc, thường phần nào kém hấp dẫn hơn trong việc thu hút người tham gia. Lí do cơ bản nhất được nhận định trong xã hội là do người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ phải đóng mức phí bảo hiểm cao hơn người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, nhìn sâu vào vấn đề thì liệu nó chỉ đơn giản như vậy?

Mức thu nhập đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hàng tháng sẽ do người tham gia tự chọn, khác với chế độ bảo hiểm xã hội được dựa theo mức lương thỏa thuận của người lao động với doanh nghiệp, thất nhất là mức lương tối thiểu vùng.

Đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện, mức thấp nhất sẽ bằng mức chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn là 1.500.000 đồng, cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở là 36.000.000 đồng kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2023 khi mà mức lương cơ sở tăng từ 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng.

Dự kiến, trong những năm tới, mức đóng tối đa này sẽ có thay đổi đáng kể khi chính sách cải cách tiền lương chính thức có hiệu lực, xóa bỏ chế độ lương cơ sở hiện hành của Việt Nam.

Căn cứ khoản 1 Điều 9 Thông tư 01/2016/TT-BLĐTBXH, công thức tính mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hàng tháng của người lao động được tính như sau:

Mức đóng hàng tháng = 22% x Mức thu nhập tháng do người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn

So sánh giữa người lao động làm việc tại doanh nghiệp đóng mức lương bảo hiểm xã hội tối thiểu là 491.400 đồng/tháng (10.5% của mức lương tối thiểu vùng 1 là 4.680.000 đồng/tháng) thì người lao động đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn mức lương tương tự sẽ phải đóng 1.029.600 (22% của mức lương lựa chọn 4.680.000 đồng/tháng)

Ngoài ra, dù người lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc chỉ phải trả 491.400 đồng/tháng nhưng họ sẽ có quyền hưởng trọn vẹn khoản đóng tổng cộng 1.497.600 đồng bao gồm cả khoản người sử dụng lao động hỗ trợ đóng, tức hưởng thêm 1.006.200 đồng/tháng.

Tuy nhiên, không chỉ lợi ích thực chất về tiền, thu nhập mà người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng gặp nhiều yếu tố khác khiến họ nản lòng, bao gồm:

Chế độ kém hấp dẫn

Mức đóng 22% trên của người lao động đóng bảo hiểm xã hội chỉ bao gồm 2 chế độ là chế độ hưu trí và tử tuất.

Khoản 3 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.”

Qua đó, người tham gia chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ không được tiếp cận các chế độ ốm đau – thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp và cả chế độ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.

Theo đó, dù phải đóng 22% so với mức đóng tổng 32% của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (trong đó đã được hỗ trợ 2/3 từ phía người sử dụng lao động) nhưng người lao động lại bị hạn chế tiếp cận đến 4 chế độ bảo hiểm xã hội.

Nếu nhìn từ góc độ thống kê thì khoản 10% chênh lệch đó liệu có tương xứng với việc mất đi quyền tiếp cận đến 4 chế độ trên? Hiển nhiên, nhiều người lao động đã thấy được sự bất cập và qua đó, dẫn đến việc số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ngày càng giảm qua các năm.

Đặc biệt, đối với người lao động nữ thì quyền tiếp cận đến chế độ thai sản lại càng đặc biệt quan trọng.

Cập nhật về khoản hỗ trợ 2 triệu chế độ thai sản trong Dự thảo sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội

Nhận thức được sự bất cập trong các chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành, Dự thảo sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội, soạn thảo bởi Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã đề xuất quy định người lao động đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh có thể nhận trợ cấp 2 triệu đồng cho mỗi con.

Đây là lần đầu tiên Dự thảo Luật đề xuất quy định bổ sung các chế độ người lao động được hưởng khi tham gia chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, được coi là động thái tích cực nhằm hỗ trợ nhóm người lao động phi chính thức, thu hút thêm người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội.

Trường hợp chỉ có mẹ đóng bảo hiểm xã hội mà không may qua đời sau khi sinh thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp thai sản 2 triệu đồng cố định, lấy kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, khoản tiền trợ cấp thai sản 2 triệu được nhiều chuyên gia và người lao động thâm niên đánh giá là không khả thi, thích hợp dù là một động thái tích cực.

Thứ nhất, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện với mức tối thiểu trong 6 tháng để đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản 2 triệu đồng sẽ phải đóng ít nhất 1,98 triệu đồng (Mức thấp nhất). Nếu được hỗ trợ bởi kinh phí Nhà nước thì họ cũng phải đóng ít nhất gần 1,4 triệu đồng.

Với số tiền bỏ ra như vậy mà chỉ được ‘nhận lại’ 20 nghìn đồng thì chắc chắn là sẽ không ai nguyện ý thực hiện, đặc biệt với hệ thống hành chính công hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam còn quá phức tạp.

Ngoài ra, việc cào bằng mức hỗ trợ 2 triệu đồng cũng sẽ không công bằng đối với người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện hàng chục năm với mức đóng nhiều hơn nhiều so với những người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tối thiểu 6 tháng với mục đích hưởng trợ cấp thai sản.

Theo đó, dù chính sách được đưa ra theo hướng tích cực song khoản hỗ trợ 2 triệu đồng cần được xem xét điều chỉnh tương ứng với số năm, mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, tương tự như chế độ thai sản cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, với mức hưởng 6 tháng lương trung bình mức đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội

Nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam là một vấn đề nghiêm trọng, cần được quan tâm đặc biệt và đã được cảnh báo nhiều lần bởi các cơ quan có thẩm quyền. Đây là tình huống xảy ra khi quỹ bảo hiểm xã hội không đủ tiền để chi trả các yêu cầu bảo hiểm của người tham gia hoặc chi trả các khoản tiền hàng tháng như lương hưu. Một số yếu tố góp phần vào nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội gồm:

  1. Sự không cân đối giữa nguồn thu và chi: Một trong những nguyên nhân chính gây ra nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội là sự mất cân đối giữa nguồn thu và chi. Khi số lượng người tham gia bảo hiểm giảm hoặc người rời quỹ tăng, hoặc mức đóng góp không đủ để đáp ứng các yêu cầu chi trả, quỹ bảo hiểm sẽ chịu áp lực tài chính và có nguy cơ không đủ tiền để chi trả đầy đủ.
  2. Quản lý không hiệu quả: Sự quản lý không hiệu quả của quỹ bảo hiểm xã hội cũng góp phần vào nguy cơ vỡ quỹ. Việc lãng phí, thất thoát tài sản, hoặc sử dụng không đúng mục đích có thể làm giảm số lượng tiền trong quỹ, dẫn đến tình trạng không đủ tiền để chi trả cho các yêu cầu bảo hiểm.
  3. Điều kiện kinh tế và dân số: Tình hình kinh tế và dân số của một quốc gia cũng có ảnh hưởng đáng kể đến nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội. Sự già hóa dân số vượt qua tốc độ phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng tình trạng thất nghiệp, hoặc sự suy thoái kinh tế nội địa hoặc toàn cầu cũng có thể tạo ra áp lực tài chính lớn và đẩy quỹ bảo hiểm xã hội vào nguy cơ vỡ quỹ.

Khi các tin và phân tích trên các trang truyền thống về nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội tăng mạnh hoặc các tin như hạn chế, giảm quyền lợi rút bảo hiểm xã hội một lần gia tăng cũng là khi người lao động nhận thức được nguy cơ rõ ràng hơn. Qua đó tạo nên hiệu ứng cầu tuyết khi mà số lượng người thoát ra trở thành nguồn động lực cho những người khác thoát ra.

Sự thoát ra này không chỉ áp dụng đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc mà bao gồm cả bảo hiểm xã hội tự nguyện vì người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng có quyền rút bảo hiểm xã hội một lần, mức hưởng tùy vào số năm đóng và mức đóng qua các giai đoạn.

Xu hướng rời bỏ chế độ bảo hiểm xã hội

Cuối cùng, với tình hình kinh tế – tài chính phát triển mạnh những năm gần đây, người dân, người lao động Việt Nam đã có tiếp cận đến nhiều nguồn đầu tư hiệu quả hơn là bảo hiểm xã hội. Theo đó, việc họ lựa chọn các kênh đầu tư hiệu quả, minh bạch hơn quỹ bảo hiểm xã hội cũng là điều tất yếu.

Ví dụ, theo khảo sát của các trang báo uy tín tại Việt Nam, một trong các lựa chọn phổ biến nhất người lao động tìm đến ngoài bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện là bảo hiểm nhân thọ với chế độ ưu đãi, có khả năng hoàn vốn và lãi sau khi đóng một khoảng thời gian cố định theo hợp đồng giữa hai bên.

Ngoài ra, các khoản tiền đóng vào các quỹ này cũng được bảo hiểm bởi một bên khác nên tính an toàn rất cao, không phải lo ngại nhiều về nguy cơ vỡ quỹ. Ngoài bảo hiểm nhân thọ thì người dân vẫn có thể lựa chọn các kênh đầu tư tương đối an toàn như tiền gửi tiết kiệm, đầu tư vàng hoặc các kênh có yếu tố mạo hiểm hơn như chứng khoán, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, tài sản tiền số,…

Lợi thế nổi bật duy nhất hiện giờ của bảo hiểm xã hội Việt Nam so với các quỹ trên chỉ có bảo hiểm y tế với sự hỗ trợ từ 80% đến 95% số tiền khám chữa bệnh, người có tham gia bảo hiểm y tế chỉ phải trả khoản chi phí đồng chi trả rất thấp. Tuy nhiên, với việc bảo hiểm xã hội tự nguyện không bao gồm chế độ bảo hiểm y tế thì đây lại là một lí do khác khiến người dân rời xa chế độ này.

Xu hướng hiện nay, nếu người lao động tham gia đầu tư vào các quỹ ngoài không có chế độ tương tự như bảo hiểm y tế thì họ sẽ tham gia bảo hiểm y tế riêng lẻ như bảo hiểm y tế theo hộ gia đình chứ không cần thiết phải tham gia vào toàn quỹ bảo hiểm xã hội.

Khi khả năng duy trì được sức hút khi các sản phẩm đầu tư khác tăng mạnh đã đến mức báo động, liệu đó có phải đã là quá muộn cho hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam khi dư địa tăng mức hưởng, giảm mức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội của hệ thống là gần như không còn?

Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.

 

    LIÊN HỆ

    Thông tin liên hệ

    Đặt câu hỏi


    Lưu ý: Quý khách vui lòng điền đẩy đủ thông tin vào ô có (*)

    BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

    Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
    Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
    Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
    Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
    Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
    Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
    Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
    Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
    Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
    Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
    Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
    Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
    Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
    Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
    Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
    Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
    Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
    Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
    Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
    Công ty luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
    ***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW***
    Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
    Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
    Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
    Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
    Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
    Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
    Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
    Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
    Contact Me on Zalo
    +84982682122
    WhatsApp chat