Lao động nữ phải chịu rất nhiều thiệt thòi trong quá trình làm việc, đặc biệt là trong thời kỳ thai sản. Hiểu được điều này, chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều chính sách có lợi cho lao động nữ tại Việt Nam. Qua đó, lao động nữ cần phải tìm hiểu kỹ các quy định về chế độ thai sản tại Việt Nam để có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Vậy, quy định về quyền lợi của lao động nữ trong thời kì thai sản tại Việt Nam là gì?
Khác với lao động nam về tâm sinh lý và sức khỏe, lao động nữ, đặc biệt là lao động nữ mang thai được hưởng thêm nhiều quyền lợi vì họ là nhóm mang tương lai của thế giới và theo đó, cần được hỗ trợ về mặt tài chính và quan trọng hơn cả là về mặt tinh thần.
Tạm hoãn hợp đồng lao động
Điều 138 Bộ luật Lao động 2019 quy định, lao động nữ nghỉ thai sản có quyền tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động nếu được cơ sở y tế có thẩm quyền xác nhận việc tiếp tục làm việc trong môi trường lao động đó sẽ có ảnh hưởng xấu đến thai nhi.
Khi tạm hoãn hợp đồng, lao động nữ có thai phải thông báo cho người sử dụng lao động kèm theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Thời gian tạm dừng do các bên thỏa thuận nhưng không ít hơn thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định.
Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian nghỉ việc thì hai bên thỏa thuận thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Cũng giống như việc tạm hoãn hợp đồng lao động, nếu cơ sở y tế có thẩm quyền xét thấy việc tiếp tục làm việc trong điều kiện lao động hiện tại của lao động nữ sẽ có ảnh hưởng xấu đến thai nhi thì lao động nữ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động thì lao động nữ đều phải thông báo cho người sử dụng lao động các giấy tờ cần thiết về quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Nếu người lao động nữ nghỉ việc theo trường hợp này sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp.
Người lao động nữ vẫn được hưởng đầy đủ các khoản phụ cấp, hỗ trợ khi hợp pháp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 của Việt Nam.
Không bị kỷ luật lao động
Khoản 4 Điều 122 Bộ luật Lao động 2019 quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật lao động.
Theo quy định, nếu nữ nhân viên mang thai mà vi phạm kỷ luật sẽ không bị xử lý. Tuy nhiên, khi hết thời gian mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng thì vẫn có thể bị xử lý kỷ luật lao động vì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động có thể bị kéo dài (quy định tại Điều 123 Luật Lao động 2019).
Theo đó, người lao động nữ không nên cố tình vi phạm kỷ luật lao động vì nghĩ rằng mình không thể bị xử lý kỷ luật về hành vi đó. Cô ấy chỉ có thể kéo dài thời gian chờ xử lý kỷ luật và hình phạt đó sẽ có hiệu lực sau khi cô ấy có thể hoạt động bình thường trở lại.
Không bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Một trong những quyền lợi đáng chú ý nhất khi lao động nữ bước vào thời kỳ thai sản có lẽ là việc người sử dụng lao động không có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với nhân viên đang mang thai.
Theo Bộ luật Lao động năm 2019 của Việt Nam, người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp ngừng kinh doanh vận hành.
Nếu người lao động nữ bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động do có thai thì người sử dụng lao động buộc phải nhận người lao động trở lại làm việc, đồng thời bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người lao động.
Trường hợp sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động vì lý do mang thai, doanh nghiệp có thể bị phạt tới 20 triệu đồng.
Không phải làm thêm giờ, đi xa, làm việc nặng nhọc
Căn cứ Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ có thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 (nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) thì không phải làm việc vào ban đêm, làm thêm giờ, thực hiện các chuyến công tác xa.
Điều này có nghĩa là lao động nữ có thai dưới 7 tháng hoặc dưới 6 tháng (đối với công việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) vẫn có thể phải đi làm đêm, đi công tác dài ngày theo sự bố trí của người sử dụng lao động, ngoại trừ việc làm thêm giờ bởi lẽ, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 107 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động chỉ được yêu cầu người lao động làm thêm giờ vì việc quyết định làm việc hay không hoàn toàn phụ thuộc vào lao động nữ.
Như vậy, lao động nữ đang mang thai có quyền từ chối làm thêm giờ nếu không đồng ý với quyết định của người sử dụng lao động nhưng họ vẫn có thể phải làm ca đêm, đi công tác xa theo sự sắp xếp của người sử dụng lao động nếu thuộc trường hợp nêu trên.
Được ưu tiên chuyển sang công việc nhẹ nhàng hơn
Lao động nữ làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh sản, nuôi con sẽ được chuyển sang làm công việc khác an toàn, nhẹ nhàng hơn hoặc giảm 1 giờ làm việc nếu cô ấy đã thông báo trước cho người sử dụng lao động.
Ngoài ra, căn cứ khoản 2 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, nếu chuyển làm công việc khác nhẹ hơn hoặc bị cắt 1 giờ làm việc thì tiền lương và các quyền, lợi ích của lao động nữ đó không bị giảm cho đến hết thời kỳ nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Nghỉ thai sản
Căn cứ theo quy định của Bộ luật lao động 2019 thì lao động nữ khi sinh con được nghỉ thai sản tối đa là 2 tháng. Tổng thời gian nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con là 6 tháng, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện sức khỏe. Nếu có sức khỏe tốt, lao động nữ có thể tự sắp xếp thời gian nghỉ trước khi sinh con và thông báo cho người sử dụng lao động.
Trường hợp sức khỏe của người lao động nữ không đảm bảo thì có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để nghỉ việc sớm, nhiều hơn thời hạn 2 tháng trước khi sinh con và phải có giấy chứng nhận xác nhận sức khỏe của lao động nữ không đảm bảo điều kiện làm việc của cơ sở y tế có thẩm quyền (Tương tự nếu như sức khỏe của lao động nữ không đảm bảo điều kiện làm việc nếu hết thời hạn 4 tháng sau khi sinh).
Ngoài ra, nếu sức khỏe của lao động nữ không bị ảnh hưởng và công việc không quá đòi hỏi, nặng nhọc, ví dụ như có thể làm việc tại nhà thì lao động nữ có thể đề nghị người sử dụng lao động cho tiếp tục làm việc thẳng đến thời hạn sinh đẻ dự kiến. Bởi lẽ thời gian nghỉ 2 tháng trước khi sinh là thời hạn ‘tối đa’ theo luật người lao động nữ có thể nghỉ. Điều đó nghĩa là nếu sức khỏe đảm bảo, lao động nữ hoàn toàn có thể làm việc cho đến ngày cuối cùng trước khi sinh và nghỉ hoàn toàn 6 tháng sau khi sinh.
Mặt khác, nếu lao động nữ nghỉ thai sản 2 tháng trước khi sinh thì không cần phải có chỉ định của cơ sở y tế và không cần chứng minh điều kiện sức khỏe.
Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên, tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, bà mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.
Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu, lao động nữ có thể nghỉ thêm thời gian không hưởng lương theo thỏa thuận với người sử dụng lao động.
Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu người lao động nữ muốn và có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động và được người sử dụng lao động đồng ý thì lao động nữ có thể trở lại làm việc sau ít nhất 04 tháng nghỉ. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc bình thường do người sử dụng lao động trả thì lao động nữ tiếp tục được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, Điều 141 Bộ luật Lao động 2019 có quy định về trợ cấp trong thời gian nghỉ dưỡng sức, thai sản và thực hiện các biện pháp tránh thai.
Theo đó, thời gian nghỉ việc khi chăm sóc con dưới 07 tuổi ốm đau, khám thai, sẩy thai, nạo, hút, thai chết lưu, nạo thai bệnh lý, các biện pháp tránh thai, đình sản, người lao động được hưởng trợ cấp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Bảo vệ quyền của lao động nữ và tương lai của thế giới
Dẫu chiếm hơn một nửa xã hội, phụ nữ luôn là nhóm người dễ bị tổn thương và chịu nhiều thiệt thòi nhất. Phụ nữ luôn là đối tượng chịu nhiều bất cập, không bình đẳng về sức khỏe, giáo dục, đào tạo, cơ hội việc làm và các nhu cầu khác. Quyền sống, quyền tự do, quyền an toàn cá nhân, thậm chí là quyền được sống lành mạnh của phụ nữ liên tục bị xâm phạm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đó là bởi vì phong tục định kiến, kì thị giới tính hay trọng nam khinh nữ luôn tồn tại ở mọi quốc gia, mọi nền văn hóa trên thế giới.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng, trên thực tế, người phụ nữ chính là người mang nặng đẻ đau và chịu đựng nhiều nhất, trải qua những khó khăn không thể tưởng tượng nổi đối với đàn ông. Theo đó, chúng ta cần bảo vệ các quyền của phụ nữ, cụ thể là quyền bình đẳng, quyền phá thai, quyền bầu cử,… nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay.
Ở Việt Nam, các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lao động đối với phụ nữ mang thai đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với nhóm đối tượng này nói riêng và đối với việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ nói chung. Trong tương lai, chắc chắn rằng các luật bảo vệ quyền phụ nữ và bình đẳng giới sẽ được phổ biến xuyên suốt toàn lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ quyền cho phụ nữ.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW*** |
||
|
||
|
||
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam |
|
|
|
||
|
||
|
||
|
||
|