Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các tranh chấp lao động trở nên phổ biến và phức tạp hơn. Việc giải quyết các tranh chấp này đòi hỏi không chỉ sự am hiểu về luật pháp mà còn cần đến những chứng cứ vững chắc và đáng tin cậy.
Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào các bên tranh chấp cũng có thể thực hiện quá trình thu thập và trình bày đầy đủ các chứng cứ cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Bài viết này sẽ đi sâu vào một số điểm cần chú ý về chứng cứ trong tranh chấp lao động tại Việt Nam, từ quy định pháp luật đến thực tiễn áp dụng, nhằm giúp các bên tranh chấp và các nhà tư vấn pháp lý có cái nhìn rõ ràng hơn và chuẩn bị tốt hơn cho quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến lĩnh vực lao động nhìn chung và tranh chấp nói riêng.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tranh chấp lao động
Trong quan hệ dân sự với bản chất là quan hệ cá nhân giữa các bên tranh chấp nên các bên sẽ có quyền tự do thương lượng, tự quyết định và tự giải quyết các vấn đề. Chính vì vậy nên khi có tranh chấp, cần sự hỗ trợ của Tòa án để phân xử công lý, bên đúng bên sai, bên phải chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt hại thì các bên sẽ có nghĩa vụ chứng minh quan điểm của mình.
Bên khởi kiện có nghĩa vụ chứng minh sự chân thực và hợp lý của các yêu cầu khởi kiện và bên bị khởi kiện có nghĩa vụ chứng minh cho các yêu cầu phản tố nếu có.
Khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 số 92/2015/QH13 (“Bộ luật tố tụng dân sự 2015”) quy định đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một dạng hoạt động tố tụng. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập các chứng cứ về vụ tranh chấp trong quá khứ một cách tỉ mỉ, khách quan, chính xác để nộp cho Tòa án, giúp Tòa án xác định các tình tiết của vụ tranh chấp, qua đó xác định cơ sở yêu cầu khởi kiện hay phản đối việc khởi kiện của các đương sự trong vụ tranh chấp là hợp lí.
Việc tìm kiếm, xác định, giao nộp, và sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự buộc phải tiến hành theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, bao gồm cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ.
Điều này là để tránh việc các đương sự thu thập, trình nộp chứng cứ một cách có chọn lọc, theo hướng có lợi cho mình, khiến Tòa án khó xác định được tình tiết cụ thể của vụ tranh chấp. Khi nhận được đầy đủ chứng cứ chính xác và khách quan từ hai bên, Tòa án sẽ tuyên một bản án hoặc quyết định đúng pháp luật và phù hợp với những chứng cứ có sẵn đã được thu thập, giao nộp và dùng để chứng minh trong quá trình tố tụng.
Trong quá trình chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể không cố định mà có thể chuyển từ bên đương sự này sang bên đương sự khác trong những điều kiện nhất định. Cụ thể, khi nguyên đơn khởi kiện, nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ lập luận của mình sẽ thuộc về nguyên đơn vì họ là chủ thể khởi xướng vụ kiện nên họ chắc chắn phải là bên đầu tiên thực hiện việc chứng minh.
Tuy nhiên, nếu nguyên đơn không chứng minh, đưa ra được các chứng cứ cho thấy lập luận của họ là hợp lý và khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, bác bỏ lập luận của nguyên đơn thì bị đơn sẽ là bên đương sự cần chứng minh cho những lập luận của mình và qua đó, yêu cầu của nguyên đơn có thể bị Tòa án bác bỏ.
Ngoài quy luật trên, có một số trường hợp ngoại lệ khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện nhưng nghĩa vụ chứng minh ban đầu lại thuộc về bị đơn. Điển hình, trong một số tranh chấp lao động khi người sử dụng lao động đuổi việc, sa thải người lao động trái pháp luật và người lao động khởi kiện doanh nghiệp, nêu rằng người sử dụng lao động thực hiện việc sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh việc người sử dụng lao động thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc xử lý kỷ luật sa thải đúng quy định sẽ thuộc về người sử dụng lao động.
Một số điểm cần chú ý về chứng cứ trong tranh chấp lao động tại Việt Nam
Tranh chấp lao động là một vấn đề phức tạp và ngày càng phổ biến trong bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, với lực lượng lao động là động lực vận hành và tăng trưởng. Một trong những yếu tố then chốt quyết định thành bại của việc giải quyết tranh chấp lao động là chứng cứ. Chứng cứ không chỉ giúp làm sáng tỏ các sự kiện, tình huống liên quan mà còn đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Một số chú ý về chứng cứ trong tranh chấp lao động các đương sự và bên hành nghề tư vấn pháp lý cần chú ý bao gồm:
Lưu ý về tính hợp lệ trong quá trình thu thập chứng cứ
Chứng cứ trong tranh chấp lao động sẽ chỉ có giá trị chứng minh trong vụ kiện nếu đáp ứng đủ ba thuộc tính gồm tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan.
Tính hợp pháp được đáp ứng khi chứng cứ được thu thập, kiểm tra, xác minh tính chính xác theo trình tự quy định bởi pháp luật liên quan. Tính khách quan được đáp ứng khi chứng cứ được thu thập dưới góc nhìn khách quan, không thiên vị hay có xu hướng hỗ trợ một bên trong tranh chấp. Tính liên quan được đáp ứng khi chứng cứ phải có mối liên hệ trực tiếp đến các tình tiết trong vụ tranh chấp, trong đó những chứng cứ không liên quan trực tiếp đến vụ việc nhưng được giao nộp để có tác động đến việc ban hành bản án, quyết định cuối cùng sẽ không được chấp nhận.
Nếu chứng cứ được giao nộp không đáp ứng được các điều kiện trên thì chúng không được ghi nhận là chứng cứ. Đương sự vẫn có thể nộp các tài liệu này cho Tòa án, Tòa án sẽ ghi chú là tài liệu tham khảo và việc sử dụng những tài liệu tham khảo này như thế nào sẽ phụ thuộc vào Tòa án, tức là nó có thể được dùng để xem xét, đối chiếu hoặc có thể không được sử dụng.
Chứng cứ có thể tồn tại dưới nhiều hình thức, có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, không giới hạn. Điển hình, chứng cứ có thể được đệ trình dưới dạng văn bản, dữ liệu điện tử, vật chứng vật lí, lời khai của đương sự, nhân chứng, văn bản được công chứng, chứng thực,…
Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ, họ có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình, hoặc đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ.
Thư điện tử có thể được công nhận là chứng cứ
Trái với quan niệm phổ biến rằng các thông tin trên mạng có thể dễ dàng bị làm giả, sửa đổi, chỉ có giấy trắng mực đen mới là chứng cứ xác đáng, không thể bị thay đổi thì thư điện tử trong môi trường số giờ đã có thể được công nhận là chứng cứ hợp pháp.
Khoản 1 Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định ghi nhận nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Khoản 3 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định về cách xác định thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Theo Bản án số 29/2018/LĐ-PT ngày 20/11/2018, Tòa án Nhân dân Tỉnh Bình Dương đã công nhận giá trị chứng cứ của các thư điện tử dùng để trao đổi thông tin qua lại giữa người lao động và người sử dụng lao động, liên quan đến việc doanh nghiệp yêu cầu người lao động nghỉ việc và ngăn cấm họ tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp.
Lời khai không được công nhận là chứng cứ nếu thiếu tính khách quan
Để được công nhận, chứng cứ có đầy đủ ba thuộc tính là tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan. Nếu có đủ các thuộc tính này thì lời nói của một người làm chứng cũng có thể được công nhận là chứng cứ trước Tòa.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, lời khai của người làm chứng dù đã trực tiếp chứng kiến các tình tiết của vụ tranh chấp dân sự mà không thông qua một khâu trung gian nào hoặc nghe người khác kể lại cũng có thể không được công nhận vì thiếu tính khách quan.
Trong quá khứ đã có nhiều trường hợp người làm chứng khai báo thông tin không đúng sự thật, có thể thông qua việc cố tình hoặc vô ý bóp méo sự thật khách quan hoặc góc nhìn họ nhìn nhận vụ việc. Lời khai của họ cũng có thể bị xuyên tạc, nói quá hoặc nói giảm nói tránh để tác động đến kết quả của vụ kiện.
Do tính chất khó xác thực của lời khai nên thông thường, khi nhận được thông tin từ người làm chứng, cơ quan có thẩm quyền sẽ phải tiến hành kiểm tra, xác thực tính chính xác của lời khai thông qua các biện pháp nghiệp vụ riêng biệt.
Trong một vụ tranh chấp lao động do Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết, Tòa án đã không công nhận chứng cứ là biên bản họp nộp bởi bị đơn là người sử dụng lao động vì biên bản họp này không có chữ ký xác nhận nội dung chính xác của người lao động, qua đó thiếu tính khách quan, là tài liệu xác nhận một phía bởi người sử dụng lao động.
Tài liệu thu âm, thu hình phải có xuất xứ hợp pháp
Khoản 2 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xác định chứng cứ có thể là tài liệu nghe được, nhìn được nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Việc quy định tài liệu thu âm phải có chứng minh xuất xứ hợp lệ và được các bên xác nhận mới được công nhận là chứng cứ xuất phát từ nhiều lý do liên quan đến tính hợp pháp, tính khách quan và tính tin cậy của chứng cứ trong quá trình tố tụng.
Nếu không có quy định này, việc thu âm, thu hình có thể vi phạm quyền riêng tư của cá nhân, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Quy định này giúp tránh việc sử dụng những tài liệu thu âm bất hợp pháp hoặc được thu thập một cách không minh bạch, không công bằng trong quá trình tố tụng.
Chứng cứ là bản ghi hình, ghi âm cũng cần đảm bảo không bị chỉnh sửa, xuyên tạc hay giả mạo, phải phản ánh sự thật khách quan.
Theo Bản án số 02/2019/LĐ-PT ngày 22/07/2019, Tòa án Nhân dân Tỉnh Tuyên Quang đã không công nhận chứng cứ là một USB có ghi âm cuộc nói chuyện giữa người lao động và người sử dụng lao động nộp bởi nguyên đơn là người lao động. Tòa án nhận định rằng bản ghi âm này được thu bất hợp pháp, không xuất trình được văn bản cho thấy người sử dụng lao động biết việc bị ghi âm hay được sự đồng ý của họ về việc ghi âm.
Tài liệu xuất trình phải được công chứng, chứng thực hợp pháp
Căn cứ khoản 1 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
Theo đó, các dạng văn bản, tài liệu bằng chữ viết có thể đọc được chỉ được coi là chứng cứ khi được công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc khi tài liệu đó là bản chính. Loại tài liệu được công chứng này sẽ được dùng làm chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo quy định tại Điều 46 Luật Công chứng 2014 số 53/2014/QH13, lời chứng của công chứng viên đối với hợp đồng, giao dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng.
Trong trường hợp nguyên đơn đệ trình chứng cứ là các bản sao chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp thì sẽ bị từ chối. Tại Bản án số 522/2019/LĐ-PT ngày 05/6/2019, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên xử phúc thẩm đã bác bỏ, từ chối tiếp nhận chứng cứ là bản nội quy làm việc được sao chép mà không có chứng thực sao y bản chính đã được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận trước đó
Cùng với nhiều vi phạm tố tụng khác của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm.
Khuyến nghị
Trong thực tiễn áp dụng, mặc dù có nhiều quy định về việc từ chối tiếp nhận các chứng cứ không hợp lệ, được thu thập bất hợp pháp, không có tính khách quan hoặc tính liên quan nhưng nhiều trường hợp Tòa án Việt Nam vẫn tiếp nhận các tài liệu đó mà không yêu cầu xóa nội dung, thông tin liên quan đến tài liệu trong quá trình xét xử.
Điều này một phần vì Việt Nam hiện không có quy định nào về việc cấm sử dụng các chứng cứ được thu thập bất hợp pháp mà nó vẫn có thể được sử dụng như tài liệu tham khảo. Trong nhiều vụ việc, các tài liệu tham khảo này lại có giá trị then chốt, ảnh hưởng đến bản án được tuyên dù nó có thể là tài liệu bị trộm, bị thu thập mà không có sự đồng ý của các bên liên quan, bị hack,…
Sau khi vụ tranh chấp được giải quyết, hành vi thu thập chứng cứ bất hợp pháp có thể hoặc có thể không bị xét xử như một vấn đề riêng biệt và sẽ không ảnh hưởng đến giá trị của các chứng cứ này tại phiên tòa trước đó.
Trong số các lưu ý trên thì hiện nay, Việt Nam chỉ mới thực sự làm nghiêm vấn đề về hình thức của chứng cứ được nộp, cụ thể là phải là bản chính hoặc bản sao chép được công chứng, chứng thực.
Các chứng cứ không hợp lệ khác vẫn có thể được thảo luận, làm giá trị tham khảo hoặc được tiếp nhận làm chứng cứ sai quy trình, vì hiện tại Việt Nam không có quy định nào cấm việc đưa ra lập luận dựa trên những chứng cứ, tài liệu tham khảo này, trong khi ở các quốc gia khác thì chứng cứ đó sẽ được coi là chứng cứ không hợp lệ và bị xóa hoàn toàn nội dung khỏi phiên Tòa.
Chính vì các vấn đề này mà các bên trong tranh chấp lao động cần đặc biệt chú ý đến những tài liệu được giao nộp, tiến hành phản bác quyết liệt khi bên còn lại đưa ra các chứng cứ không hợp lệ được thu thập bất hợp pháp. Tài liệu, dù có được tiếp nhận chính thức hay không, cũng có nguy cơ được sử dụng để chống lại quý khách hàng tại Tòa án.
Đáng lưu ý, kể cả việc trao đổi, thỏa thuận hòa giải với bên tranh chấp còn lại cũng có thể được sử dụng làm chứng cứ bất lợi đối với quý khách hàng. Chính vì vậy mà khi giải quyết tranh chấp lao động, quý khách hàng nên tiến hành liên hệ với một công ty luật uy tín về lĩnh vực lao động, giải quyết tranh chấp để nhận được hỗ trợ trong suốt quá trình xét xử, đặc biệt ở công đoạn thu thập và giao nộp chứng cứ, phản bác chứng cứ bất hợp lệ.
ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].
Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn Luật về Lao động và Việc làm.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN