lưu ý về chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Tòa án Việt Nam, lưu ý về chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Việt Nam, chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Tòa án Việt Nam, lưu ý về chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Tòa án, chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Việt Nam,

Lưu ý về chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Tòa án Việt Nam

Trong tranh chấp dân sự, việc giao nộp, xuất trình chứng cứ cho Tòa án là một trong các công đoạn quan trọng nhất trong toàn thể quá trình giải quyết vụ án. Sự bắt đầu và kết thúc của một vụ tranh chấp dân sự phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ được cung cấp bởi các bên liên quan. Điều này là vì gần như tất cả các hoạt động diễn ra tại Tòa án sẽ xoay quanh việc chứng minh, phản bác các chứng cứ là đúng, sai, hoặc không liên quan đến vụ việc.

Với tầm quan trọng như vậy, việc các bên hiểu và nắm bắt được các lưu ý, thuộc tính của chứng cứ trong tranh chấp dân sự là điều cần thiết khi tham gia vào quá trình tố tụng. Trong bài viết sau, ASL LAW sẽ chỉ ra một số lưu ý về việc cung cấp, xuất trình chứng cứ trong tranh chấp dân sự tại Việt Nam, bao gồm các khái niệm liên quan, các thuộc tính của chứng cứ, trách nhiệm giao nộp chứng cứ và các trường hợp chứng cứ không được công nhận, cùng với sự so sánh giữa hoạt động liên quan đến chứng cứ giữa trọng tài và Tòa án.

Chứng cứ trong tranh chấp dân sự

Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 số 92/2015/QH13 (“Bộ luật Tố tụng dân sự 2015”) quy định chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.

Căn cứ Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nguồn của chứng cứ có thể bao gồm tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Vật chứng; Lời khai của đương sự; Lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.

Trong tranh chấp dân sự, chứng cứ đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu. Chứng cứ là những thông tin, bằng chứng, hoặc tài liệu có thể hỗ trợ hoặc chống lại các yêu cầu, tuyên bố và lập luận của các bên trong vụ kiện. Tầm quan trọng của chứng cứ phản ánh sự minh bạch và công bằng trong việc giải quyết tranh chấp, đồng thời đảm bảo tính xác đáng và chính xác của quyết định tư pháp, đồng thời giúp ngăn chặn gian lận và lạm quyền trong hệ thống tư pháp.

Một số điều cần lưu ý về chứng cứ trong tranh chấp dân sự

Chứng cứ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong tranh chấp dân sự, bởi vì nó là cơ sở để xác định sự thật và tính công bằng trong pháp luật. Một số lưu ý đáng chú ý về chứng cứ trong tranh chấp dân sự bao gồm:

Tính liên quan của chứng cứ đến nội dung tranh chấp

Dù không được quy định chi tiết trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, các thuộc tính của chứng cứ có thể được chia thành ba loại gồm tính liên quan, tính hợp pháp, tính khách quan diễn giải tại khoản 1 và khoản 2 Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Tính liên quan của chứng cứ đến nội dung tranh chấp dân sự thể hiện ở việc chứng cứ có tính liên quan sẽ được tòa án dựa vào để giải quyết vụ việc. Chứng cứ nếu không có tính liên quan sẽ không được sử dụng trong vụ án dân sự, dù chứng cứ đó có thể có liên quan đến các vụ án khác, hoặc các nội dung xét xử khác liên quan đến vụ án này.

Trong thực tiễn áp dụng, có thể phân chia về mức độ liên quan của chứng cứ thành chứng cứ liên quan trực tiếp và chứng cứ liên quan gián tiếp.

Chứng cứ liên quan trực tiếp là những chứng cứ mà thông qua nó, Tòa án có thể khẳng định ngay được sự liên quan đến vụ việc, ví dụ như hóa đơn, chứng từ chuyển tiền, hợp đồng vay của một bên trong tranh chấp thanh toán quốc tế. Ngược lại, chứng cứ liên quan gián tiếp đến vụ việc dân sự có thể không được xác định, khẳng định ngay khi nó được đệ trình.

Ví dụ, trong tranh chấp dân sự về việc xác định danh tính người cha cho một đứa trẻ sinh ra vào tháng 10 năm 2022, bị đơn nam đã xuất trình được các giấy tờ di chuyển, hóa đơn khách sạn, vé xe, lệnh công tác từ công ty trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 2 năm 2022 (thời điểm phải thụ thai). Theo đó, dù những chứng cứ trên không liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp nhưng nó chứng minh được rằng bị đơn ở khác vị trí của người mẹ trong thời điểm thụ thai. Khi đó, các chứng cứ đó trở thành chứng cứ ngoại phạm.

Vì không cùng xuất hiện ở trong cùng khu vực nên bị đơn có chứng cứ ngoại phạm tuyệt đối trong việc xác định ông có phải cha của đứa trẻ hay không. Qua đó, Tòa án có thể dựa vào các chứng cứ gián tiếp trên để đưa ra kết luận bị đơn không phải cha của đứa trẻ.   

Khi đánh giá chứng cứ, ngoài việc xem xét các chứng cứ một cách độc lập, có tính liên quan trực tiếp hoặc không trực tiếp đến vụ án thì tòa án cũng sẽ xác định mối liên quan giữa các chứng cứ trong việc phản ánh sự thật khách quan.

Trong trường hợp các chứng cứ có cùng mức độ liên quan, tức cùng mức độ ưu tiên thì Tòa án cần sử dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để làm rõ giá trị chứng minh của từng chứng cứ, qua đó sử dụng chúng làm căn cứ cho giải quyết vụ việc dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đối với bản án sơ thẩm và khoản 4 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đối với bản án phúc thẩm.

Nghĩa vụ giao nộp đầy đủ chứng cứ

Để đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ theo quy định tại điểm 20 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì trước hết các bên phải tiến hành giao nộp chứng cứ đầy đủ, đi sau quá trình thu thập chứng cứ.

Để đảm bảo chứng cứ được đánh giá một cách khách quan thì hoạt động thu thập chứng cứ đi trước cần được thực hiện một cách công bằng, toàn diện, đầy đủ và chính xác, hiệu quả.

Khi đã thu thập được chứng cứ, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Trong trường hợp tài liệu thiếu, không đầy đủ, không chính xác, cần bổ sung, sửa đổi thì Tòa án sẽ yêu cầu đương sự giao nộp, sửa đổi các tài liệu, chứng cứ cần thiết. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ tranh chấp.

Lưu ý về các trường hợp chứng cứ không được công nhận

Khi giao nộp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ lập luận của mình, đương sự cần chú ý về các trường hợp chứng cứ sẽ không được công nhận bởi Tòa án, qua đó có thể ảnh hưởng đến quá trình lập luận, bảo vệ quyền lợi của mình. Một số trường hợp chứng cứ không được công nhận bao gồm:

Biên bản họp không được ký xác nhận bởi các bên liên quan

Trong các tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động, doanh nghiệp và đối tác,… thì biên bản họp song phương, đa phương chính là một trong các chứng cứ hợp pháp phổ biến nhất.

Biên bản họp là loại văn bản ghi lại toàn bộ nội dung diễn ra trong buổi họp, bao gồm thông tin được thông báo, ý kiến của người tham gia, quyết định cuối cùng, và các thông tin quan trọng khác tùy vào nội dung và loại hình cuộc họp. Vì sự đa dạng trong các phương thức họp, hình thức họp nên luật pháp Việt Nam không có quy định mẫu biên bản họp cụ thể về tất cả các phương thức, hình thức họp, song dù không có quy định nhưng một biên bản họp vẫn cần phải tuân thủ những điều kiện và quy định tại Nghị định 30/2020/NĐ-CP về công tác văn thư.

Trong tranh chấp dân sự, biên bản họp thường là một trong các chứng cứ được đệ trình vì tính minh bạch và chính xác, phản ánh sự thật khách quan được các bên đồng ý và xác nhận. Tuy nhiên, nếu biên bản họp không chứng minh được sự đồng thuận giữa các bên thì biên bản họp đó sẽ không có giá trị pháp lý và không thể được sử dụng làm chứng cứ, bằng chứng trong tranh chấp.

Ví dụ, theo kết luận tại Bản án số 524/2017/LĐ-PT ngày 12/6/2017, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không công nhận chứng cứ là biên bản họp có nội dung cuộc họp giữa ông T và đại diện Công ty H vì biên bản họp trên vào ngày 9 tháng 5 năm 2016 chỉ có chữ ký của giám đốc Công ty H (ông L) và chữ ký xác nhận đại diện của nhân viên Công ty H nhưng không có chữ ký của ông T. Điều này chứng minh rằng biên bản họp trên không được ông T thừa nhận nội dung và qua đó, không có giá trị.

Vì không được đương sự xác nhận, thừa nhận nên biên bản họp này thiếu tính khách quan – một trong ba thuộc tính cần thiết của chứng cứ như phân tích bên trên. Theo đó, biên bản họp này không thể được sử dụng làm chứng cứ theo như yêu cầu của Công ty H.

Ngoài tài liệu, chứng cứ trực tiếp bằng giấy như biên bản họp thì các hình thức thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử như e-mail, tin nhắn qua các ứng dụng như Zalo, Viber, Whatsapp,… cũng được xác định là chứng cứ và không thể bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ trong một tranh chấp dân sự chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu điện tử theo như quy định tại khoản 3 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Điều 14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 số 51/2005/QH11.

Tài liệu thu âm không chứng minh được xuất xứ hợp pháp

Tài liệu thu âm cũng là một dạng dữ liệu điện tử theo quy định tại khoản 1 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 số 101/2015/QH13 (“Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”), có thể được công nhận, xác định là chứng cứ trong tranh chấp dân sự.

Khoản 2 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định một trong các loại chứng cứ được xác định là tài liệu nghe được, nhìn được nếu đương sự có thể xuất trình chứng cứ đó kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.

Một trong các điều kiện quan trọng nhất để hợp pháp hóa tài liệu thu âm chính là yêu cầu chứng minh xuất xứ hợp pháp tài liệu đó.

Xuất xứ của tài liệu là bản ghi âm được xác định hợp pháp khi người có tài liệu đó đưa ra đoạn ghi âm xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc ghi âm. Ngoài ra, bản thân giọng nói trong bản ghi âm cũng cần được xác nhận bởi người có liên quan rằng đây là giọng nói của họ, không qua chỉnh sửa, biến tấu và nội dung trò chuyện được xác định đúng với ý định của họ trong trường hợp nội dung thể hiện không rõ nghĩa.

Trong trường hợp tranh chấp, đương sự có thể không thừa nhận thì các cơ quan giám định cần ban hành kết luận, báo cáo xác nhận giọng nói thuộc về bên liên quan trong tranh chấp thông qua các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn.

Ở khía cạnh khác, nếu bản ghi âm, thu âm được thu thập theo phương thức trái pháp luật thì tài liệu đó có thể sẽ không được công nhận là chứng cứ hợp pháp. Ví dụ điển hình nhất là các bản ‘ghi âm lén’ được thu âm một cách bất hợp pháp, không có sự đồng thuận hay nhận thức của bên được ghi âm.

Các bản ghi âm đó chỉ có giá trị là tài liệu có giá trị tham khảo mà không được Tòa án xác định là chứng cứ trong vụ án, có giá trị chứng minh để tìm ra sự thật khách quan.

Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng bổ sung vào nhận định này. Cụ thể, khoản 2 Điều 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

Các quy định hạn chế, từ chối việc công nhận tài liệu thu âm hay các tài liệu nghe được, nhìn được khác làm chứng cứ nhằm mục đích tránh việc thu thập chứng cứ tùy tiện, không hạn chế, xâm phạm vào các quyền khác của các bên tranh chấp trong quá trình, hoạt động thu thập chứng cứ như quyền con người, quyền bảo vệ dữ liệu cá nhân quy định tại Nghị định 13/2023/NĐ-CP,…

So sánh với nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ trong trọng tài thương mại tại Việt Nam

Hiện nay, Luật Trọng tài thương mại 2010 số 54/2010/QH12 (“Luật Trọng tài thương mại 2010”) không có quy định riêng biệt về chứng cứ, hoạt động thu thập chứng cứ và các khái niệm liên quan. Việc định nghĩa cũng như phương thức thu thập, đánh giá chứng cứ của Trọng tài theo quy định tại Luật Trọng tài thương mại 2010 vẫn được thực hiện theo các quy định hiện có tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Tương tự quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp của đương sự quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, các bên trong tranh chấp dân sự giải quyết bởi Hội đồng Trọng tài cũng có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Hội đồng trọng tài để chứng minh các sự việc có liên quan đến nội dung đang tranh chấp căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại 2010.

Dù có nhiều điểm tương đồng song việc chứng minh, cung cấp chứng cứ trong tranh chấp giải quyết bởi Hội đồng Trọng tài vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập khi so sánh với vụ tranh chấp dân sự giải quyết bởi Tòa án.

Điển hình, vì Hội đồng Trọng tài không có quyền lực cưỡng chế nên các bên tranh chấp thường không cung cấp đầy đủ chứng cứ, tài liệu hoặc không tham gia các cuộc họp giải quyết tranh chấp như khi nhận được phán quyết của Tòa án.

Trong một số trường hợp nhất định, Tòa án có thể tham gia hỗ trợ thu thập chứng cứ trong các vụ tranh chấp dân sự giải quyết bởi Hội đồng Trọng tài. Khoản 5 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp.

ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal. xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].

Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về tranh tụng và giải quyết tranh chấp.

BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
Công ty Luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty Luật ASL LAW***
Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
Contact Me on Zalo
+84982682122
WhatsApp chat