vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Toà án Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự, áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Toà án Việt Nam, áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Việt Nam,

Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Toà án Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế, nhu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc dân sự tại Toà án Việt Nam ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, việc thực hiện áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, chưa được chính thức triển khai áp dụng trong nhiều vụ việc.

Điều này đặt ra một loạt thách thức và cơ hội mới đối với hệ thống tư pháp của Việt Nam, yêu cầu cần sửa đổi, bổ sung các quy định chi tiết về việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại Việt Nam. Bài viết sau sẽ phân tích chi tiết nội dung áp dụng pháp luật nước ngoài trong tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 (“Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”), các khó khăn, vướng mắc khi triển khai áp dụng trong thực tế và một số giải pháp đề xuất.

Pháp lý về áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam

Điều khoản về việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.

Điển hình, Điều 667 và Điều 770 Bộ luật dân sự 2015 số 91/2015/QH13 quy định về việc áp dụng và trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài. Khoản 5 Điều 4 Luật Đầu tư 2020 số 61/2020/QH14 có quy định hợp đồng có ít nhất một bên tham gia là nhà đầu tư nước ngoài có thể thỏa thuận việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc tập quán đầu tư quốc tế nếu thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật Việt Nam.

Các quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài cũng được quy định trong các Bộ luật, Luật như Bộ luật hàng hải, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật chuyển giao công nghệ,…

Tuy nhiên, dù có quy định nhưng việc triển khai áp dụng các nội dung này trên thực tế vẫn còn sơ sài, không có tính thực tiễn cao vì các quy định này nhìn chung vẫn không sát thực tế, chỉ mang định hướng chung mà không có hướng dẫn cụ thể về cách triển khai áp dụng.

Phải đến năm 2015 khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được ban hành thì Việt Nam mới chính thức có nội dung ‘tương đối chặt chẽ’ về việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Cụ thể:

“Điều 481. Xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài để Tòa án áp dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

Trường hợp Tòa án Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì trách nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài được thực hiện như sau:

1. Trường hợp đương sự được quyền lựa chọn pháp luật áp dụng là pháp luật nước ngoài và đã lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài đó thì có nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài đó cho Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự. Các đương sự chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã cung cấp.

Trường hợp các đương sự không thống nhất được với nhau về pháp luật nước ngoài hoặc trong trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc thông qua Bộ ngoại giao đề nghị cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài;

2. Trường hợp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên quy định phải áp dụng pháp luật nước ngoài thì đương sự có quyền cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án hoặc Tòa án yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài cung cấp pháp luật nước ngoài;

3. Tòa án có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài;

4. Hết thời hạn 06 tháng, kể từ ngày Tòa án yêu cầu cung cấp pháp luật nước ngoài theo quy định tại Điều này mà không có kết quả thì Tòa án áp dụng pháp luật của Việt Nam để giải quyết vụ việc dân sự đó.”

Vấn đề xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án để giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài

Phần lớn các quốc gia trên thế giới hiện đang có hai chính sách xử lý đối với việc xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án để giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.

Quan điểm thứ nhất xoay quanh việc các đương sự trong vụ tranh chấp sẽ có quyền và nghĩa vụ tìm kiếm, xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án.

Quan điểm thứ hai cho rằng cơ quan tư pháp là Tòa án có nghĩa vụ chủ động tìm kiếm và xác định pháp luật nước ngoài để dùng làm căn cứ phân xử vụ việc.

Đối với các quốc gia theo quan điểm thứ nhất, góc nhìn của họ là các đương sự phải có nghĩa vụ chủ động tìm kiếm, xác định tính chính xác và trình pháp luật nước ngoài cho Tòa án như một vấn đề về tình tiết của vụ tranh chấp. Nếu các bên liên quan không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện, việc này sẽ được Tòa án đánh giá là đương sự đã không cung cấp đủ bằng chứng hợp lệ và qua đó không được chấp nhận.

Quan điểm này được biết đến là “Học thuyết chứng cứ” (fact doctrine) được xây dựng bởi thẩm phán khi mà luật pháp nước ngoài được chứng minh và thừa nhận như chứng cứ trong một vụ việc. Quan điểm này đang được một số quốc gia như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Úc, Hà Lan và các nước EU áp dụng.

Việc giao trách nhiệm cung cấp pháp luật nước ngoài cho đương sự thể hiện tính mở và sự linh hoạt trong việc giải quyết tranh chấp dân sự nhưng cũng có nhược điểm là khó đảm bảo về tính chính xác, nguy cơ kéo dài vụ việc nếu có sai sót trong tài liệu được cung cấp.

Khi đương sự được cung cấp chứng cứ, tính xác thực, độ tin cậy của văn bản pháp luật nước ngoài có rủi ro rất lớn nếu không được các cơ quan liên quan công chứng, xác nhận về tính hợp pháp, hợp pháp hóa lãnh sự,… Chính vì vậy mà tại các quốc gia áp dụng chính sách này, các đương sự có thể tranh luận với nhau về việc pháp luật do bên kia cung cấp không hợp lệ hoặc thiếu uy tín.

Đối với quan điểm thứ hai, cách tiếp cận của hệ thống tư pháp các quốc gia này sẽ là Tòa án là cơ quan có trách nhiệm chủ động tìm kiếm và xác định pháp luật nước ngoài được sử dụng để giải quyết vụ việc. Theo đó, dù các đương sự không đề cập, không có yêu cầu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì các thẩm phán, Tòa án với trách nhiệm giải quyết các tranh chấp vẫn phải chủ động tìm hiểu tất cả các yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc ban hành quyết định cuối cùng.

Việc quốc gia nào áp dụng chính sách nào còn phụ thuộc vào đặc điểm riêng biệt của quốc gia đó, có thể bao gồm hệ thống pháp luật áp dụng là thông luật hay dân luật, chính sách đối nội đối ngoại có thể biến động theo từng thời kì cùng nhiều yếu tố khác. Chính vì vậy nên việc đánh giá quan điểm của quốc gia nào là đúng hơn hoặc tốt hơn sẽ không khách quan.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, kể cả những quốc gia giao quyền hay nghĩa vụ tìm kiếm và xác định pháp luật nước ngoài để áp dụng cho hệ thống tư pháp thì Tòa án cũng có xu hướng tham khảo ý kiến chuyên môn của các đương sự hoặc các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực liên quan chứ không chỉ tự mình xác định pháp luật nước ngoài.

Theo quy định tại Điều 481 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Việt Nam là quốc gia theo quan điểm đương sự sẽ có quyền cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án để giải quyết tranh chấp.

Quyền và nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài trong tranh chấp dân sự tại Việt Nam

Khác với các quốc gia hoàn toàn theo quan điểm thứ nhất hoặc thứ hai, Việt Nam áp dụng chính sách trong trường hợp đương sự được quyền lựa chọn pháp luật áp dụng là pháp luật nước ngoài và đã lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài thì đương sự sẽ có nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài đó cho Tòa án để giải quyết vụ tranh chấp dân sự.

Theo đó, điểm khác biệt lớn nhất là việc các đương sự cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án là quyền chứ không phải nghĩa vụ. Chỉ khi các đương sự đã thống nhất với nhau và quyết định lựa chọn việc cung cấp pháp luật nước ngoài, đã xác nhận điều này với Tòa án thì việc cung cấp mới trở thành nghĩa vụ của đương sự.

Việc cung cấp cho các đương sự quyền lựa chọn việc cung cấp pháp luật nước ngoài cho Tòa án thể hiện việc hệ thống tư pháp tôn trọng quyền lợi và công nhận khả năng của đương sự. Điều này là vì trong phần lớn các vụ tranh chấp, đương sự chính là bên có nhiều kiến thức chuyên môn nhất liên quan đến luật pháp áp dụng để phân xử vụ việc do họ đã phải có sự nghiên cứu và tìm hiểu chuyên sâu trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tranh chấp.

Các đương sự chính là bên có quyền lợi gắn chặt với vụ việc nên họ sẽ đã phải thực hiện nghiên cứu chuyên sâu. Tuy nhiên, cũng chính vì lợi ích của mình nên các tài liệu đương sự nộp lên cũng có thể không hợp lệ, có xu hướng thiên vị hoặc có lợi cho họ khi cố ý lựa chọn các điều khoản có lợi, loại trừ các nội dung bất lợi.

Nếu đương sự có quyền cung cấp pháp luật nước ngoài thì Tòa án sẽ là cơ quan có nghĩa vụ kiểm tra tính chân thực của các tài liệu này, đặc biệt khi các văn bản pháp luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để đưa ra quyết định cuối cùng.

Trong trường hợp các bên không thống nhất được với nhau về pháp luật nước ngoài được áp dụng thì Tòa án sẽ có trách nhiệm xác minh nội dung pháp luật nước ngoài, có thể thông qua việc yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và các bộ phận liên quan cung cấp pháp luật nước ngoài.  

Ngoài ra, Tòa án cũng được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài.

Qua đó, có thể thấy Việt Nam có quy định chú trọng sự linh hoạt trong việc giải quyết các vụ tranh chấp dân sự nhưng cũng rất chặt chẽ trong việc trao quyền cung cấp pháp luật nước ngoài cho các đương sự. Trong trường hợp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên quy định phải áp dụng pháp luật nước ngoài thì đương sự cũng được trao quyền cung cấp pháp luật nước ngoài.

Khó khăn cho Tòa án trong việc xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài

Nội dung về áp dụng pháp luật nước ngoài quy định tại Điều 481 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu cung cấp khung pháp lý cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể phải áp dụng pháp luật nước ngoài.

Tuy nhiên, các nội dung vẫn còn khá sơ sài, chưa có tiêu chuẩn hoặc hướng dẫn cụ thể. Điển hình, khoản 3 Điều 481 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định Tòa án có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài nhưng đến hiện tại vẫn không có hướng dẫn hay tiêu chí, điều kiện nào để xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân ‘có chuyên môn về pháp luật nước ngoài’.

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng chưa có quy định về hình thức trưng cầu ý kiến chuyên môn của các chuyên gia. Tại một số khu vực pháp lý khác, khi các đương sự cung cấp pháp luật nước ngoài thông qua ý kiến chuyên môn của các chuyên gia, họ sẽ trả tiền để mời, thuê các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực tranh chấp, người sẽ được biết đến như nhân chứng chuyên gia ‘expert witness’ được phép đưa ra ý kiến của mình trong phiên xét xử.

Đương nhiên, những người làm chứng này cần tuyên thệ rằng kiến thức và lời khai của họ là đúng sự thật đến khả năng thấu hiểu tốt nhất của họ. Các bên tranh chấp khác có thể phản bác lại lời khai của những người làm chứng này, đặt ra những câu hỏi làm hạ bệ uy tín hay giảm độ tin cậy về kiến thức chuyên môn của họ.

Việt Nam hiện chưa có quy định chi tiết về vấn đề này, dẫn đến một số khó khăn khi triển khai áp dụng như liệu các nhân chứng chuyên gia này có buộc phải tham gia trực tiếp phiên tòa hay không, liệu có được tham gia trực tuyến thông qua các nền tảng như Zoom, Google Meet,… và liệu họ có quyền tranh luận với nhân chứng chuyên gia của các bên khác về lĩnh vực chuyên môn của họ không.

Theo đó, Việt Nam cần xem xét sửa đổi, ban hành quy định chặt chẽ hơn trong lĩnh vực này, có thể xây dựng một danh sách về các cơ quan, tổ chức, cá nhân với các tiêu chuẩn về bằng cấp liên quan đến lĩnh vực pháp luật tại một quốc gia để được công nhận là có chuyên môn. Danh sách này cần được cập nhật thường xuyên với sự biến động của thế giới, qua đó trở thành nguồn cung cấp pháp luật nước ngoài phù hợp.

Góc nhìn về hậu quả pháp lý của việc đương sự không cung cấp nội dung pháp luật nước ngoài đúng thời hạn

Tại Việt Nam, trong trường hợp đương sự đã lựa chọn quyền cung cấp nội dung pháp luật cho Tòa án nhưng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án trong vòng 6 tháng trong quá trình yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc thì Tòa án sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết vụ việc dân sự căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 481 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về tính chất, do Việt Nam cung cấp quyền được lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài trong các vụ việc có thể áp dụng pháp luật nước ngoài nên các trường hợp đương sự đã lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp dụng cho quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp nhưng trong thời hạn 6 tháng lại không thể tìm kiếm và cung cấp được pháp luật nước ngoài là hành vi không tuân theo lẽ thông thường.

Đáng ra, đương sự đã phải biết, tìm kiếm và xác định được nguồn pháp luật nước ngoài để áp dụng rồi sau đó mới chấp nhận lựa chọn quyền cung cấp. Việc lựa chọn cung cấp rồi sau đó không thể thực hiện được thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp của đương sự, không phải đến giai đoạn tranh chấp được thụ lý, tiến hành giải quyết thì đương sự mới bắt đầu tìm kiếm.

Theo đó, để có cơ sở giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam sẽ phải áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết vụ việc. Nếu pháp luật Việt Nam được lựa chọn áp dụng để giải quyết vụ việc đáng ra phải sử dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật Việt Nam đã được hiểu là không có sự khác biệt về cơ bản với pháp luật nước ngoài.

Trong trường hợp pháp luật Việt Nam không có điều luật cụ thể để giải quyết tranh chấp dân sự, Tòa án Việt Nam sẽ áp dụng án lệ, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng theo thứ tự này căn cứ theo quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

***ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal. xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới info@aslgate.com.

Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về tranh tụng và giải quyết tranh chấp.

BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
Công ty Luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty Luật ASL LAW***
Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
Contact Me on Zalo
+84366667697
WhatsApp chat