Ở Việt Nam, hành vi mua bán sổ BHXH không phải là trường hợp hiếm. Tình trạng này đã lặp đi lặp lại trong nhiều năm mà không có dấu hiệu dừng lại. Tuy nhiên, có rất nhiều hệ quả của hành động này mà người mua và người bán có thể không biết. Vậy, quy định về hình phạt khi mua bán sổ BHXH tại Việt Nam là gì?
Mặc dù người lao động có quyền ủy quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp BHXH theo quy định tại Khoản 6 Điều 18 Luật BHXH Việt Nam nhưng quy định này tuyệt không ngụ ý rằng hành vi mua bán sổ BHXH là được phép.
Quy định cho phép ủy quyền được tạo nên (phần lớn) để tạo điều kiện cho những người lao động lớn tuổi, những người gặp khó khăn trong việc di chuyển để có thể yêu cầu sự hỗ trợ của người khác, thường là người thân trong gia đình, đến cơ quan có thẩm quyền để nhận trợ cấp xã hội cho họ.
Tuy nhiên, việc bán sổ BHXH trực tiếp không còn thuộc phạm vi được ủy quyền hoặc bất kỳ đối tượng nào khác theo quy định của pháp luật. Do sổ BHXH không phải là tài sản nên mọi giao dịch dân sự liên quan đến mua bán, cầm cố loại giấy tờ này đều trái pháp luật.
Tuy nhiên, trong khi người mua có thể biết về điều này nhưng người bán có thể không. Do trình độ hiểu biết về BHXH ở Việt Nam còn khá hạn chế nên người lao động ở các vùng miền núi xa xôi có thể bị lừa bán sổ BHXH với số tiền không nhỏ.
Cụ thể, người mua sẽ lừa người bán làm các công văn ủy quyền để người mua rút tiền BHXH một lần, lấy số tiền chênh lệch.
Xử phạt hành vi mua bán sổ BHXH ở Việt Nam
Hành vi mua bán sổ BHXH tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả bên bán và bên mua, nặng nhất có thể bị xử phạt hình sự đến 10 năm tù.
Không chỉ người bán mà người mua bị lừa bán sổ BHXH đều có thể gặp rắc rối vì pháp luật đã quy định chặt chẽ các điều luật và không phân biệt bên nào là bên vi phạm, bất kể mục đích gì. Các quy định về sổ BHXH đã được phổ biến rộng rãi nên rất khó để tranh luận rằng những người bán không nhận thức được quy định của pháp luật.
Trong trường hợp mua bán sổ BHXH và bị cơ quan BHXH phát hiện thì tùy theo tính chất, mức độ mà người vi phạm có thể bị phạt hành chính hoặc hình sự. Cụ thể, mức phạt như sau:
“Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người lao động có một trong các hành vi sau đây: Kê khai sai sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xóa các nội dung liên quan đến việc hưởng chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách thất nghiệp nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.”
Ngoài ra, nếu vụ việc nghiêm trọng đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cá nhân mua bán sổ BHXH có thể chịu các hình phạt sau:
- Phạt tiền từ 20 – 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm, phạt tù từ ba tháng đến hai năm trong trường hợp lập hồ sơ khống, khai man nội dung hồ sơ bảo hiểm xã hội hoặc sử dụng hồ sơ giả hoặc tài liệu làm sai lệch nội dung, lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội, chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội từ 10 đến dưới 100 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 20 đến dưới 200 triệu đồng.
- Bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm nếu chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội từ 500 triệu đồng hoặc gây thiệt hại từ 500 triệu đồng trở lên.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được tư vấn luật về lao động và việc làm.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW*** |
|
|
|
||
|
||
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam |
|
|
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
Tư vấn sở hữu trí tuệ |