Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành vào năm 2005 đã góp phần điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến vấn đề sở hữu trí tuệ (SHTT). Tuy nhiên, đã có nhiều thay đổi đáng kể từ năm 2005. Việt Nam không chỉ đơn thuần là một quốc gia sử dụng SHTT mà đã chuyển mình thành một quốc gia có thể tự tạo ra các tài sản SHTT để hỗ trợ mô hình tăng trưởng sâu rộng hơn.
Việc luật sở hữu trí tuệ (SHTT) được sửa đổi trong năm 2009 và 2019 chủ yếu có mục đích đáp ứng các cam kết của Việt Nam với Tổ chức Thương mại Thế giới và trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Do đó, luật SHTT vẫn chưa thực sự tập trung vào việc tạo động lực mạnh mẽ cho việc nghiên cứu khoa học và sáng tạo, cũng như chưa tạo lập khung pháp lý đầy đủ và hiệu quả cho việc bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ.
Thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Bên cạnh đó, việc hội nhập kinh tế toàn cầu đang được chú trọng hơn với việc Việt Nam ký kết nhiều điều ước quốc tế đòi hỏi phải tăng cường đáng kể việc bảo hộ và thực thi quyền SHTT. Cụ thể như CPTPP, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU và các hiệp định khác, các cam kết quốc tế phải được luật hóa thông qua việc sửa đổi luật SHTT.
Việc sửa đổi luật sẽ theo chiều hướng khuyến khích đổi mới, đảm bảo sự ổn định và thống nhất, minh bạch, khả thi, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và văn hóa của đất nước.
Việc sửa đổi sẽ tập trung vào một số vấn đề, bao gồm đảm bảo các quy định rõ ràng về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn và chủ sở hữu các quyền liên quan đến việc chuyển giao các quyền đó; khuyến khích sáng tạo, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí do nhà nước tài trợ; tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện thủ tục đăng ký, thủ tục xác lập quyền; đảm bảo mức độ bảo vệ cân bằng và đầy đủ; nâng cao hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ về SHTT; nâng cao hiệu quả của việc thực thi quyền SHTT; thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các cam kết quốc tế trong hội nhập toàn cầu.
Điều 122 và Điều 135 của Luật SHTT hiện hành có quy định việc bảo đảm quyền cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí. Cụ thể, chủ sở hữu có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu phải trả cho tác giả bằng 10% doanh thu mà chủ sở hữu thu được từ việc sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp hoặc thiết kế bố trí; và 15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được đối với mỗi lần thanh toán khi được cấp bằng độc quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp hoặc thiết kế bố trí.
Về việc chuyển đổi số, trong lần sửa đổi năm 2019, luật SHTT có quy định về đăng ký trực tuyến quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 89. Theo đó, trang web của Cục Sở hữu trí tuệ (NOIP) đã được nâng cấp.
Với sự hỗ trợ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, từ năm 2019, Cục SHTT đã triển khai công cụ tra cứu trực tuyến mang tên Wipo publish. Dựa trên kết quả tra cứu, các cá nhân, tổ chức để có thể đánh giá khả năng được bảo hộ đối với nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế mà họ muốn đăng ký.
Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục thực hiện việc rà soát, đánh giá để kiến nghị Chính phủ sửa đổi quy định về dữ liệu sở hữu công nghiệp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho việc phổ biến thông tin.
Cơ chế bảo hộ quyền SHTT đương nhiên được coi là một công cụ để khuyến khích và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cũng như ngăn chặn việc cạnh tranh không lành mạnh.
Để có thể đáp ứng các cam kết về SHTT trong các hiệp định thương mại tự do mới, phải tạo môi trường thuận lợi để đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ từ các tổ chức quốc tế nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Điều này sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam để họ có thể hưởng lợi từ những đổi mới của mình, với phạm vi bảo vệ quyền SHTT rộng hơn cũng như dễ dàng và minh bạch hơn.
Thực thi hiệu quả các cam kết có lợi đồng nghĩa với việc đưa ra các hình phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm, từ đó, có thể tạo nên một môi trường kinh doanh lành mạnh hơn. Bên cạnh những lợi ích, còn có những rào cản đáng kể, đặc biệt là trong quá trình hội nhập toàn cầu, do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức. Phải hoàn thành được các mục tiêu trên, Việt Nam mới có thể nắm bắt được cơ hội từ việc hội nhập toàn cầu.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được hướng dẫn về luật doanh nghiệp, luật lao động, luật sở hữu trí tuệ, tư luật về bất động sản.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW*** |
|||
|
|||
|
|||
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt Nam |
|
||
|
|||
|
|||
|
|||
|
|||
|
|||