Trong năm 2021, lượng trái phiếu không có bảo đảm có giá trị lên tới 83 nghìn tỷ đồng (3,6 tỷ USD), con số này chiếm 18% tổng số trái phiếu đã phát hành. Trong bối cảnh thị trường trái phiếu đang có những diễn biến phức tạp, số lượng trái phiếu tín chấp lớn như vậy có thể sẽ mang đến rủi ro đáng kể cho nhà đầu tư.
Hiện tại vẫn chưa có khung pháp lý nào quy định cụ thể việc phát hành trái phiếu không có bảo đảm.
Theo các quy định của Nghị định 153/2020/NĐ-CP, các cơ quan chức năng không cấp phép phát hành trái phiếu riêng lẻ. Chính tổ chức phát hành là người quyết định hình thức phát hành trái phiếu của mình và chịu trách nhiệm về các đợt phát hành của mình.
Theo đó, quy định này vẫn còn những kẽ hở liên quan đến trái phiếu riêng lẻ không có bảo đảm và trái phiếu tư nhân được bảo đảm bằng tài sản đảm bảo có chất lượng không cao trong Luật Chứng khoán 2019 và Nghị định 153. Do đó, cần sửa đổi các văn bản luật pháp này để loại bỏ các kẽ hở trên.
Đặc biệt, quy định về mục đích phát hành có thể được sửa đổi để đảm bảo tổ chức phát hành sử dụng tiền thu được đúng mục đích.
Các quy định về xếp hạng tín nhiệm trái phiếu cũng có thể được bổ sung để nâng cao tính công khai, minh bạch, góp phần nâng cao chất lượng trái phiếu được phát hành. Nhà đầu tư có thể tham khảo xếp hạng tín nhiệm để đánh giá rủi ro trái phiếu, giảm mức rủi ro hiệu quả.
Các nhà lập pháp cũng có thể đưa ra các quy định về đại diện người sở hữu trái phiếu để giám sát tốt hơn việc sử dụng tiền thu được và mức độ mà tổ chức phát hành tuân thủ các cam kết của họ.
Ngoài ra, việc thành lập sàn giao dịch trái phiếu tư nhân nên được đẩy mạnh để nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu và đưa trái phiếu giao dịch trên thị trường thứ cấp vào tầm kiểm soát.
Các quy định về việc công bố thông tin cũng cần được sửa đổi để tăng cường tính minh bạch của các tổ chức phát hành.
Cuối cùng, cần có văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 153 để loại bỏ những kẽ hở pháp lý do Thông tư 16/2021/TT-NHNN chỉ quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.
Rủi ro trong trường hợp tổ chức phát hành không trả được nợ
Do hầu hết trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam không được xếp hạng tín nhiệm, không có tài sản bảo đảm và không có bảo lãnh thanh toán, nên các nhà đầu tư thường phải đối mặt với rủi ro cao về việc không được hoàn tiền mua hoặc tiền đặt cọc trong trường hợp tổ chức phát hành hoạt động không có lãi và không có khả năng trả nợ.
Một số doanh nghiệp mặc dù huy động vốn với lãi suất cao nhưng không thể đưa ra phương án kinh doanh khả thi để trả nợ, khiến tình hình trở nên trầm trọng hơn.
Trong bối cảnh nhiều rủi ro như vậy, các tổ chức phát hành thường thu hút các ngân hàng hoặc công ty chứng khoán phát hành trái phiếu thay mặt họ để co được lòng tin của các nhà đầu tư vào trái phiếu của họ.
Điều này có thể hiệu quả vì các nhà đầu tư có khả năng mua trái phiếu dựa trên danh tiếng của các ngân hàng và công ty chứng khoán.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là các tổ chức đó chỉ là nhà cung cấp dịch vụ. Họ không bị bắt buộc về mặt pháp lý để đánh giá tình hình tài chính và khả năng trả nợ của tổ chức phát hành.
Trong trường hợp tổ chức phát hành phá sản, các khoản thanh toán cho nhà đầu tư luôn nằm trong danh sách các khoản thanh toán cho các bên liên quan.
Đáng chú ý, theo Luật Phá sản 2014, các khoản ưu tiên thanh toán như sau: chi phí phá sản, lương chưa trả, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các quyền lợi khác theo hợp đồng lao động; các khoản nợ phát sinh sau khi phá sản được sử dụng để phục hồi hoạt động; nghĩa vụ tài chính đối với Chính phủ; các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ; các khoản nợ có bảo đảm không trả được do giá trị của tài sản thế chấp không đủ để thanh toán các khoản nợ đó.
Hình phạt áp dụng đối với tổ chức phát hành công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin trong đợt phát hành trái phiếu
Hình thức xử phạt được quy định tại Nghị định 156/2020/NĐ-CP và Nghị định 128/2021/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Cụ thể hơn, tổ chức phát hành vi phạm sẽ bị phạt 400-500 triệu đồng và tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả, đặc biệt là buộc thu hồi trái phiếu đã phát hành và hoàn trả số tiền thu được cộng với tiền lãi cho nhà đầu tư.
Ngoài ra, Điều 132 Luật Chứng khoán 2019 quy định, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà tổ chức phát hành vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp tổ chức phát hành công bố sai sự thật, che giấu thông tin là hành vi vi phạm Điều 209 Bộ luật Hình sự 2015 thì tổ chức phát hành vi phạm chắc chắn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hình phạt tối đa cho các vi phạm là năm năm tù. Đối với pháp nhân có thể bị phạt tới 5 tỷ đồng.
Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được hướng dẫn về luật doanh nghiệp, luật lao động, luật sở hữu trí tuệ, tư luật về bất động sản.
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN