Quyết định huỷ và không huỷ phán quyết trọng tài của Toà án Việt Nam, Toà án Việt Nam mâu thuẫn trong phán quyết trọng tài , quyền hạn hủy phán quyết trọng tài của Tòa án Việt Nam , Tòa án Việt Nam hủy phán quyết trọng tài , góc nhìn về việc hủy phán quyền trọng tài của Tòa án Việt Nam,

Thấy gì từ việc Toà án Việt Nam huỷ và không huỷ phán quyết của trọng tài đối với 02 vụ việc gần đây

Những năm gần đây, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng được các doanh nghiệp ở Việt Nam ưu tiên lựa chọn bởi nhiều ưu điểm như sự tinh gọn, linh hoạt trong thủ tục xét xử, tính bảo mật cao hay quyền tự thảo thuận của các bên tham gia giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, thách thức đặt ra đối với phương thức giải quyết tranh chấp này chính là khả năng thực thi của phán quyết trọng tài.

Phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp được nêu trong đơn kiện, làm chấm dứt tố tụng trọng tài và có giá trị chung thẩm ràng buộc đối với các bên. Dù vậy, trong một số trường hợp theo luật định, phán quyết trọng tài có rủi ro bị tuyên hủy bởi Tòa án.

Đây cũng là nỗi lo và gây ra nhiều băn khoăn, trăn trở cho các doanh nghiệp, các trung tâm trọng tài khi tham gia và thực hiện giải quyết tranh chấp trọng tài.

Tại bài viết này, ASL LAW sẽ phân tích, làm rõ những yếu tố cơ bản và quan trọng để đi đến việc chấp nhận hủy hay không hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam thông qua hai quyết định của Tòa án nhân dân Hà Nội gần đây.

Tóm tắt nội dung hai vụ việc được giải quyết bằng trọng tài:

“Quyết định số 16/2023/QĐ-PQTT về việc không hủy phán quyết trọng tài” của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 27 tháng 11 năm 2023.

Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội được yêu cầu xét Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài (sau đây viết tắt là PQTT) của Công ty TNHH TP I… là bị đơn trong vụ tranh chấp số 49/22 ngày 23/6/2023 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (sau đây viết tắt là VIAC) tại Hà Nội giải quyết tranh chấp với nguyên đơnlà Envelop G…

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên phát sinh tranh chấp và Bên liên quan khởi kiện bên yêu cầu tại VIAC để yêu cầu hủy hợp đồng liên quan đến 600.000 chiếc khẩu trang chưa giao, yêu cầu Bên yêu cầu hoàn tiền đã thanh toán, và trả phí luật sư.

Kết luận của Hội đồng xét đơn trong việc không hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 49/22

Kết luận của Hội đồng xét đơn

  • Việc HĐTT không phản ánh đầy đủ ý kiến của Bên yêu cầu thuộc về nội dung vụ án mà HĐTT đã xét xử, không nằm trong phạm vi xem xét của Tòa án và không có căn cứ để hủy Phán quyết.
  • HĐTT có cơ sở để áp dụng CISG trong vụ án, vấn đề này đã được giải quyết trong Phán quyết.
  • Bên liên quan đã hợp pháp hóa giấy ủy quyền, bao gồm cả việc ủy quyền ký đơn khởi kiện, nên không cần phải hợp pháp hóa riêng đơn khởi kiện, phù hợp với quy định của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP.
  • Việc HĐTT tách phần hợp đồng đã được thực hiện và chưa thực hiện thuộc về nội dung vụ án nên không đủ cơ sở để hủy Phán quyết và không trái với pháp luật.
  • HĐTT có quyền yêu cầu Bên yêu cầu chịu một phần chi phí pháp lý cho Bên liên quan theo quy định của Luật Trọng tài thương mại.

Hội đồng xét đơn đã ra Quyết định không chấp nhận yêu cầu hủy của Bên yêu cầu vì không có cơ sở để kết luận Phán quyết của HĐTT vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

“Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT về việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài” của Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 04 tháng 7 năm 2023.

Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội được yêu cầu xét đơn hủy Phán quyết trọng tài (sau đây viết tắt là PQTT) vụ tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa ba bên gồm: Công ty Cổ phần Nước AO (AO), ông Đỗ Tất T, và WP PTE (WP).

Viện kiểm sát tham gia phiên họp có quan điểm:

  • Việc Bên yêu cầu có cơ sở nghi ngờ giả mạo chứng cứ và yêu cầu giám định nhưng không được HĐTT chấp thuận là vi phạm Luật Trọng tài thương mại và Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC.
  • Nghị quyết ngày 12/7/2021 và các văn bản ủy quyền không được hợp pháp hóa lãnh sự và các giấy tờ này không thuộc các trường hợp được miễn chứng nhận hợp pháp hóa lãnh sự nên không được công nhận và sử dụng tại Việt Nam.
  • Phán quyết trọng tài vi phạm một số quy định tại Luật Trọng tài Thương mại, do đó yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Bên yêu cầu là có căn cứ.
Kết luận của Hội đồng xét đơn trong việc hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 79/21

Kết luận của Hội đồng xét đơn:

  • Ngày 16/12/2022, VIAC ban hành PQTT vụ tranh chấp số 79/21. Đến ngày 11/01/2023, Bên yêu cầu đã nộp đơn yêu cầu hủy PQTT đến Văn phòng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nên nằm trong thời hạn luật định, việc tiến hành thụ lý và giải quyết vụ việc là đúng thẩm quyền và Bên yêu cầu không bị mất quyền phản đối.
  • Hội đồng xét đơn chỉ xem xét về thẩm quyền trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài, việc thu thập, sử dụng, đánh giá tài liệu, chứng cứ và việc ban hành phán quyết của HĐTT có trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hay không mà không xét xử lại nội dung tranh chấp mà HĐTT đã giải quyết.
  • Văn bản ủy quyền và chứng cứ không có hiệu lực pháp lý vì chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.
  • VIAC đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của Bên liên quan và chấp nhận tư cách tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền của Bên liên quan khi các tài liệu này chưa được hợp pháp hóa lãnh sự trọng khi Bên yêu cầu phản đối là không đúng quy định. Mặc dù sau này, trong quá trình tố tụng trọng tài, Bên liên quan đã nộp bổ sung các văn bản và giấy ủy quyền đã hợp pháp hóa lãnh sự nhưng HĐTT đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (xác định tư cách khởi kiện) khi thụ lý khởi kiện của Bên liên quan.
  • HĐTT không khách quan, vi phạm Luật trọng tài thương mại khi không trưng cầu giám định chữ ký khi Bên yêu cầu có yêu cầu.

Do đó, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Bên yêu cầu là có căn cứ. Hội đồng xét đơn chấp nhận yêu cầu, hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 79/21 ngày 16/12/2022 của VIAC.

Một số nội dung rút ra từ hai vụ việc trên

Từ hai quyết định này, ASL Law có một số bình luận chung về những cơ sở mà Toà Việt Nam có thể xem xét khi giải quyết yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như một số bất cập về các quy định pháp luật được áp dụng như sau:

Thứ nhất, về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Theo quy định tại Luật Trọng tài thương mại 2010, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp có thể hủy phán quyết trọng tài thì có thể làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, trừ trường hợp bất khả kháng. Như vậy, thời hạn để các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài sẽ được tính từ ngày bên đó nhận được phán quyết trọng tài. 

Tuy nhiên, dù căn cứ theo quy định của pháp luật, tại nhận định của Tòa án tại hai Quyết định, có thể thấy rằng Tòa án đã tính thời hạn dựa trên ngày ban hành phán quyết trọng tài mà không xét đến ngày các bên nhận được phán quyết trọng tài như quy định trên. Nhìn chung, theo Quy tắc tố tụng trọng tài của một số trung tâm tố tụng trọng tài, “ngày ban hành phán quyết trọng tài” và “ngày nhận được phán quyết trọng tài” sẽ có độ lệch nhất định. Vì vậy việc tính thời hạn từ ngày ban hành phán quyết trọng tài sẽ ảnh hưởng đến quyền nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của các bên. Đây là điểm khác biệt đáng lưu ý giữa thực tiễn xét xử của Tòa án so với quy định của pháp luật mà các bên cần lưu ý để đảm bảo quyền yêu cầu của mình.    

Thứ hai, phạm vi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Tòa án

Dựa trên các căn cứ mà bên yêu cầu đưa ra nhằm yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài, có thể nhận thấy rằng phạm vi mà bên yêu cầu đề nghị Tòa án xem xét bao gồm cả vấn đề liên quan đến nội dung xét xử và thủ tục xét xử của Hội đồng trọng tài trong vụ việc, cụ thể như việc cho rằng Hội đồng trọng tài không khách quan trong việc xem xét ý kiến của Bên yêu cầu nên dẫn đến phán quyết không chính xác.

Dù vậy, nhận định của Tòa án ở cả hai Quyết định đều thể hiện rõ ràng một cách nhất quán rằng phạm vi xem xét của Tòa án khi xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chỉ dựa trên các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010, theo đó từ chối xét lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết.

Quan điểm này của Tòa án là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại 2010, thể hiện tính chung thẩm của phán quyết trọng tài, nhằm bảo đảm tính nhất quán và ổn định trong cơ chế giải quyết tranh chấp, đồng thời tôn trọng quyết định của Hội đồng trọng tài và sự độc lập của quy trình tố tụng trọng tài.

Thứ ba, về tính hợp pháp của Đơn khởi kiện, văn bản ủy quyền và các tài liệu chứng cứ khác liên quan

Về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài do trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể về vấn đề không hợp pháp hóa lãnh sự các tài liệu tố tụng, Hội đồng xét đơn ở cả hai vụ việc đã đưa ra các Quyết định khác nhau như sau: Trong vụ việc số 79/21, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội ra quyết định hủy Phán quyết trọng tài số 79/21 do VIAC đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn và thừa nhận thẩm quyền của người đại diện mặc dù nghị quyết có nội dung về việc uỷ quyền và đơn khởi kiện chưa được hợp pháp hóa lãnh sự. Ngược lại, trong vụ việc số 49/22, Tòa án cho rằng do giấy uỷ quyền đã được hợp pháp hoá lãnh sự có nội dung thể hiện việc ủy quyền ký đơn khởi kiện, vì vậy lúc này Toà án cho rằng không cần phải hợp pháp hóa riêng đơn khởi kiện và phù hợp với quy định tại Điều 9 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP.

Nhận định trên của Hội đồng xét đơn là căn cứ theo Điều 478 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định rằng giấy tờ, tài liệu và bản dịch tiếng Việt có công chứng, chứng thực đã được hợp pháp hóa lãnh sự sẽ được Tòa án Việt Nam công nhận và sử dụng, trừ trường hợp các giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam; và quy định tại Điều 9 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP các giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự thuộc trường hợp giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự.

Như vậy, trong cả hai Quyết định của Tòa án đều thể hiện rõ quan điểm của Tòa án về việc xem xét tính hợp pháp của tài liệu trong tố tụng trọng tài sẽ tuân thủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự với lí do rằng trong trường hợp Luật trọng tài thương mại không có quy định cụ thể, thủ tục tố tụng trọng tài phải áp dụng các quy định và thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Lập luận này của Tòa án là chủ đề cần sự thảo luận đa chiều từ các luật sư, trọng tài viên cũng như các nhà nghiên cứu.

Bởi lẽ, theo tinh thần của nhận định trên, để giảm thiểu rủi ro đối mặt với việc bị hủy phán quyết trọng tài, Hội đồng trọng tài buộc phải xây dựng thủ tục tố tụng trọng tài tuân theo Bộ luật Tố tụng Dân sự, trừ khi có Luật Trọng tài thương mại có quy định cụ thể khác. Ví dụ, vì Luật Trọng tài thương mại không cung cấp các quy định cụ thể về điều kiện xác định chứng cứ là văn bản, nhưng theo quy định phải tuân theo Bộ luật Tố tụng Dân sự, cụ thể tại Điều 95, Trọng tài phải yêu cầu các bên cung cấp bản chính, bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp của toàn bộ tài liệu, văn bản mà các bên nộp cho tòa để làm chứng cứ. Tuy nhiên, việc này sẽ gây ra các ảnh hưởng tiêu cực, làm mất đi tính ưu việt của tố tụng trọng tài thường vốn ưu tiên sự tinh gọn, tiết kiệm chi phí và hiệu quả trong thủ tục tố tụng.

Ngoài ra, với quan điểm yêu cầu phải thực hiện hợp pháp hóa lãnh sự tất cả các tài liệu nộp tới cơ quan xét xử, việc công chứng, hợp pháp hóa lãnh sự các văn bản được phát hành ở nước ngoài sử dụng chữ ký điện tử hoặc chữ ký số sẽ là một thách thức cho các bên tham gia tranh chấp cũng như chính cơ quan xét xử khi xem xét tính xác thực cả về hình thức và về nội dung theo pháp luật hiện hành.

Trong trường hợp vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau liên quan đến việc xác định tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ trong thủ tục tố tụng trọng tài, để đảm bảo hạn chế nguy cơ bị xem xét hủy phán quyết trọng tài, đối với các tài liệu quan trọng như Giấy ủy quyền, Đơn khởi kiện, Đơn phản tố,… các tài liệu, chứng cứ nên đảm bảo tuân thủ việc chứng thực, hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định hiện hành.

Thứ tư, tính khách quan và công bằng của Hội đồng trọng tài

Theo nhận định của Tòa án, việc Hội đồng trọng tài đã không xem xét trưng cầu giám định khi Bên yêu cầu đề nghị là thể hiện sự không khách quan và đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010.

Đối với nhận định Hội đồng trọng tài thể hiện sự không khách quan, không công bằng và vi phạm nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam theo khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 là chưa có cơ sở bởi vì:

  • Về vấn đề giám định chữ ký: dù Hội đồng trọng tài không thực hiện việc giám định nhưng nguyên đơn trong vụ việc đã nộp hồ sơ và đưa ra chứng cứ xác minh tính chân thực của chữ ký, nghĩa là nguyên đơn đã xác nhận ý chí của mình được thể hiện trong biên bản họp dù chữ ký có sự thiếu nét khi so sánh với các chữ ký tại các văn bản khác. Đồng thời, việc bổ sung tài liệu cũng một lần hiện thực hóa thẩm quyền của người ký đơn khởi kiện, khẳng định ý chí của nguyên đơn. Do vậy, Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục vụ việc không trái với nguyên tắc khách quan.
  • Về việc quyết định trưng cầu giám định hay không trưng cầu giám định: Hội đồng Trọng tài có quyền trưng cầu giám định nhưng không có nghĩa vụ bắt buộc phải trưng cầu giám định, đặc biệt là khi Nguyên đơn đã khẳng định ý chí về việc thực hiện khởi kiện. 
  • Việc khẳng định Hội đồng trọng tài không công bằng chỉ xảy ra khi Hội đồng trọng tài thực hiện giám định với yêu cầu của một bên và không thực hiện giám định với yêu cầu của bên còn lại.
  • Trong quá trình xét xử, khi Bị đơn trong vụ việc không tham gia phiên xét xử về thẩm quyền, Hội đồng trọng tài đã tiến hành tổ chức phiên xét xử về thẩm quyền trực tuyến để các bên đều có cơ hội và nêu ra ý kiến của mình.

Như vậy, việc Hội đồng trọng tài không trưng cầu giám định và tiếp tục thụ lý giải quyết vụ việc không có đầy đủ dấu hiệu để xem là hành vi vi phạm nguyên tắc khách quan theo khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại. Tính khách quan là một khái niệm mang tính định tính và phụ thuộc khá nhiều vào quan điểm của bên xem xét, tuy nhiên để hạn chế việc xem xét và đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến tính thực thi của phán quyết trọng tài, Hội đồng xét đơn có lẽ cần có góc nhìn chặt chẽ hơn.

Trên thực tế, khi muốn chứng minh tài liệu là giả hoặc thiếu tính xác thực, việc trưng cầu giám định tính xác thực của chữ ký hoàn toàn có thể thực hiện được với bên đưa ra yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Bài học kinh nghiệm rút ra từ tình huống này là trong một số trường hợp, bên không có yêu cầu có thể chủ động thực hiện việc giám định và gửi tới Hội đồng trọng tài như là một chứng cứ cho vụ việc và chi phí cho việc giám định sẽ được Hội đồng trọng tài phân bổ theo Luật TTTM cũng như theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài.

Kết luận

Nhìn chung, bên cạnh các căn cứ xem xét hủy phán quyết được quy định minh thị, dễ dàng xác định hơn như các trường hợp không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài, thì trường hợp xem xét hủy phán quyết trọng tài vì vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam lại là một vấn đề còn cần tiếp tục bàn luận thông qua các Quyết định của Tòa án trên thực tiễn. Hệ thống tố tụng trọng tài Việt Nam nói riêng và hệ thống tố tụng nói chung cần một quá trình dài để phát triển, sửa đổi thông qua từng vụ việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên thực tế cũng như tham khảo từ kinh nghiệm của các quốc gia khác.

Tuy nhiên, dù còn nhiều vấn đề cần thảo luận liên quan đến Quyết định hủy phán quyết trọng tài của Tòa án, nhưng pháp luật Việt Nam hiện tại vẫn chưa có cơ chế cho phép Tòa án cấp cao hơn xem xét lại hoặc giám sát Quyết định của Tòa án cấp dưới trong việc hủy phán quyết trọng tài. Vì vậy, từ vị trí của các bên tham gia tố tụng tại thời điểm hiện tại, việc tham khảo các quan điểm của Tòa án đối với thủ tục tố tụng trọng tài và tuân thủ, dù có thể phát sinh thêm thời gian và chi phí, nhưng là biện pháp đảm bảo tính thực thi của phán quyết trọng tài một cách hiệu quả.

ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal. xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].

Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về tranh tụng và giải quyết tranh chấp.

BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
Công ty Luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty Luật ASL LAW***
Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
Contact Me on Zalo
+84982682122
WhatsApp chat