Quy định phát hành trái phiếu, trái phiếu bảo đảm, lỗ hổng trong quy định về trái phiếu, giải pháp để bảo vệ nhà đầu tư trái phiếu, Quy định pháp luật về trái phiếu doanh nghiệp, Quy định pháp luật về trái phiếu doanh nghiệp và những giải pháp để bảo vệ nhà đầu tư trái phiếu

Quy định pháp luật về trái phiếu doanh nghiệp và những giải pháp để bảo vệ nhà đầu tư trái phiếu

(Bài đăng trên: Vietnam Law Magazine) Trái phiếu doanh nghiệp đang là chủ đề nóng trong thời gian gần đây khi nhiều Công ty lớn thực hiện việc phát hành trái phiếu với mục đích huy động vốn. Bài viết này sẽ phân tích những quy định hiện hành về trái phiếu doanh nghiệp và chỉ ra những lỗ hổng còn tồn đọng trong những quy định đó, đồng thời đưa ra những khuyến nghị nhằm bảo vệ các nhà đầu tư trái phiếu tại Việt Nam.

Tác giả: Luật sư Phạm Duy Khương & Cộng sư Đoàn Vũ Hoài Nam, Công ty Luật ASL LAW.

Các quy định hiện hành về trái phiếu doanh nghiệp và các vấn đề pháp lý đang hiện hữu

Có thể nói rằng, trên thị trường vốn hiện nay, trái phiếu doanh nghiệp đang là một kênh cho vay quan trọng giúp các doanh nghiệp huy động vốn để thực hiện các dự án của họ cũng như đảm bảo tiến độ kinh doanh trong bối cảnh việc vay vốn ngân hàng trở nên khó khăn hơn, do ngân hàng quản lý và giám sát việc cung cấp các khoản vay ngày càng chặt chẽ hơn.

Về vấn đề trái phiếu doanh nghiệp, Nghị định số 153/2020/NĐ-CP (“Nghị định 153”) đưa ra những quy định rõ ràng hơn đối với việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Ví dụ, nguyên tắc phát hành và sử dụng vốn trái phiếu; các điều kiện, điều khoản cơ bản của trái phiếu; quy trình chào bán trái phiếu; phương án phát hành trái phiếu và thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành. Nghị định đã cung cấp một cơ chế rõ ràng hơn để điều chỉnh việc phát hành trái phiếu cũng như bảo vệ các nhà đầu tư khi đầu tư vào công cụ tài chính này.

Tuy nhiên, vẫn còn những lỗ hổng pháp lý trong Nghị định 153 mà các doanh nghiệp đã lợi dụng để lách luật, từ đó, các hành vi trái phép được thực hiện không chỉ bởi các nhà đầu tư chuyên nghiệp mà còn từ những nhà đầu tư nhỏ lẻ. Theo Nghị định 153, đối với trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng quyền, đối tượng mua trái phiếu là những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật chứng khoán. Dựa trên quy định tại Điều 11 Luật chứng khoán 2019, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là nhà đầu tư có năng lực tài chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán bao gồm:

  1. Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Công ty tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức tài chính quốc tế, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, tổ chức tài chính nhà nước được mua chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan;
  2. Công ty có vốn điều lệ đã góp đạt trên 100 tỷ đồng hoặc tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch;
  3. Người có chứng chỉ hành nghề chứng khoán;
  4. Cá nhân nắm giữ danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch có giá trị tối thiểu là 02 tỷ đồng theo xác nhận của Công ty chứng khoán tại thời điểm cá nhân đó được xác định tư cách là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
  5. Cá nhân có thu nhập chịu thuế năm gần nhất tối thiểu là 01 tỷ đồng tính đến thời điểm cá nhân đó được xác định tư cách là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế hoặc chứng từ khấu trừ thuế của tổ chức, cá nhân chi trả.
Trái phiếu doanh nghiệp đóng vai trò như một kênh cho vay quan trọng trên thị trường vốn_Ảnh: Internet

Như vậy, ngoài các đối tượng được quy định tại điểm (1) và (2) nêu trên, cá nhân muốn trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp chỉ cần đáp ứng một trong ba điều kiện còn lại. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong trường hợp của Tân Hoàng Minh, các nhà đầu tư nhỏ vẫn tự cho rằng họ đang nắm giữ trái phiếu do Tân Hoàng Minh phát hành mà không đáp ứng các điều kiện nêu trên. Nguyên nhân là do các Công ty con của Tân Hoàng Minh phát hành trái phiếu với mục đích dùng chúng để đầu tư chéo vào các Công ty thành viên khác trong hệ sinh thái Tân Hoàng Minh, thay vì huy động vốn cho Công ty trực tiếp chào bán trái phiếu. Tuy nhiên, trái chủ hay bên mua trái phiếu chủ yếu lại chính là Tập đoàn Tân Hoàng Minh. Từ đó, theo hình thức hợp đồng ma với cái tên “Hợp tác đầu tư với Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Khách sạn Tân Hoàng Minh”, Tân Hoàng Minh đã huy động được gần 10.000 tỷ đồng từ các nhà đầu tư tư nhân.

Trên thực tế, các nhà đầu tư cá nhân về bản chất không nắm giữ trái phiếu của Tân Hoàng Minh, nhiều người cho rằng họ là trái chủ cũng như nhiều người khác cũng lầm tưởng rằng Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép đã cấp phép cho lô trái phiếu này của Tân Hoàng Minh. Tuy nhiên, dựa trên quy định của pháp luật chứng khoán hiện hành, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chỉ cấp phép và quản lý chặt chẽ trái phiếu doanh nghiệp được phát hành bởi những Công ty đại chúng. Đối với trái phiếu doanh nghiệp tư, những doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo khả năng trả nợ mà không cần phải có được sự chấp thuận của bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào.

Ngoài ra, nhà đầu tư sẽ phải tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình và tự chịu mọi rủi ro phát sinh trong việc đầu tư và giao dịch trái phiếu của các tập đoàn trên. Nhà nước không đảm bảo việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu thanh toán đầy đủ và đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn cũng như các quyền khác cho nhà đầu tư mua trái phiếu. Do đó, trong trường hơp doanh nghiệp phát hành trái phiếu thua lỗ, không có khả năng thanh toán, nhà đầu tư sẽ phải đối mặt với nguy cơ không được thanh toán cho trái phiếu, do trái phiếu doanh nghiệp tư nhân phát hành tại Việt Nam chủ yếu đến từ các Công ty chưa được xếp hạng và nhiều loại trái phiếu không được bảo đảm thanh toán.

Bên cạnh đó, cơ chế quản lý và giám sát về trái phiếu đang trong tình trạng báo động. Mặc dù Nghị định 153 yêu cầu doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải nêu rõ mục đích phát hành trái phiếu trong hồ sơ chào bán trái phiếu, quy trình chào bán trái phiếu (Điều 11 Nghị định 153),phương án phát hành trái phiếu và thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành (Điều 13 Nghị định 153), tuy nhiên vẫn còn thiếu sự quản lý, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Cụ thể, Nghị định 153 quy định rằng, một doanh nghiệp chỉ được phép phát hành trái phiếu cho ba mục đích, cụ thể là để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư; tăng quy mô vốn hoạt động; cơ cấu lại nguồn vốn của chính doanh nghiệp và các mục đích này phải được quy định rõ trong phương án phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương án phát hành trái phiếu lại được phê duyệt bởi chính những người lãnh đạo của doanh nghiệp, như Đại hội đồng cổ đông đối với Công ty Cổ phần, hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch hội đồng thành viên đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn.

Hơn nữa, Điều 41 Nghị định 153 cũng quy định rằng, việc giám sát huy động vốn, sử dụng vốn phát hành trái phiếu, thanh toán lãi, gốc trái phiếu thuộc trách nhiệm của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, chủ sở hữu công ty dựa theo quy định tại Nghị định và Điều lệ Công ty. Do thiếu sự quản lý, giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên các Doanh nghiệp có thể tự ý huy động và sử dụng vốn không đúng mục đích, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà đầu tư.

Đối với hành vi công bố thông tin sai sự thật hay che giấu thông tin trong phát hành trái phiếu, theo Nghị định 156 năm 2020, doanh nghiệp có thể bị phạt từ 400-500 triệu VNĐ và tùy vào tính chất, mức độ vi phạm và có thể phải thực hiện một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả.

Trong trường hợp của Tân Hoàng Minh, doanh nghiệp này có nghĩa vụ thu hồi chứng khoán đã chào bán, đã phát hành; hoàn trả cho nhà đầu tư số tiền dùng để mua chứng khoán cộng với tiền lãi tính theo lãi suất quy định của trái phiếu. Tuy nhiên, nếu vi phạm ở mức độ nghiêm trọng, doanh nghiệp có thể bị coi là cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán theo quy định tại Điều 209 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) nếu có dấu hiệu của tội danh này.

Tuy nhiên, việc công bố thông tin sai sự thật hay che giấu thông tin trong phát hành trái phiếu sẽ vẫn xảy ra thường xuyên vì những thiếu sót trong cơ chế quản lý và giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như đã đề cập ở trên. Cơ quan Nhà nước chỉ can thiệp khi chủ đầu tư bị thiệt hại nặng nề hay hành vi vi phạm đã quá rõ ràng.

Hội thảo phổ biến quy định mới về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu năm 2021_Ảnh: Hua Chung/VNA

Giải pháp để giám sát việc phát hành trái phiếu và bảo vệ nhà đầu tư trái phiếu

Có thể thấy rằng, việc các doanh nghiệp thao túng thị trường trong thời gian qua thể hiện việc giám sát, quản lý liên quan đến trái phiếu của các cơ quan quản lý Nhà nước dường như vẫn chưa chặt chẽ, và là một trong những nguyên nhân gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà đầu tư. Vì vậy, giải pháp đầu tiên sẽ liên quan đến việc Nhà nước phải đưa ra khuôn khổ pháp lý và cơ chế rõ ràng để tất cả các doanh nghiệp phát hành trái phiếu có thể đưa dữ liệu giao dịch tập trung về một điểm. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, Nhà nước nên áp dụng nhiều công cụ khác nhau để giám sát, quản lý chặt chẽ việc phát hành trái phiếu, từ đó kịp thời phát hiện những sai phạm. Hoạt động này có thể giảm thiểu việc công bố thông tin sai lệch hay che giấu thông tin trong thị trường trái phiếu, từ đó tạo nên môi trường minh bạch hơn cho các nhà đầu tư. 

Thứ hai, vì các nhà đầu tư còn thiếu thông tin và kiến thức về các sản phẩm tài chính cũng như thông tin về doanh nghiệp phát hành trái phiếu, Nhà nước có thể xem xét xây dựng một cơ chế đánh giá mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Theo đó, các nhà đầu tư có thể căn cứ vào kết quả xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp từ cơ sở dữ liệu đã được công bố hoặc phân tích đánh giá rủi ro của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm để đánh giá mức lãi suất tương đối và rủi ro liên quan đến trái phiếu do doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực hoặc khác lĩnh vực ban hành. Trên cơ sở đó, nhà đầu tư có thể đưa ra sự lựa chọn đúng đắn, tránh được rủi ro.

Thứ ba, Nhà nước cũng nên xem xét để xây dựng một cơ chế để bảo vệ nhà đầu tư, với lý do cho dù nhà đầu tư có thể đánh giá được mức độ uy tín của doanh nghiệp, nhưng nhà đầu tư khó có thể giám sát được việc thanh toán lãi và gốc của doanh nghiệp, tình trạng tài chính cũng như việc tuân thủ các điều khoản trong hợp đồng trái phiếu. Kết quả là, khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, các nhà đầu tư không nhận được bất kỳ khoản bồi thường nào cho khoản đầu tư của họ. Kiến nghị Nhà nước xem xét ban hành các quy định pháp luật về việc thành lập các tổ chức có chức năng như trên để giám sát quá trình phát hành trái phiếu cũng như bảo vệ các nhà đầu tư trong trường hợp họ phải chịu thiệt hại.

Liên hệ với công ty luật ASL LAW để được hướng dẫn về luật doanh nghiệp, luật lao động, luật sở hữu trí tuệ, luật bất động sản.

    LIÊN HỆ

    Thông tin liên hệ

    Đặt câu hỏi


    Lưu ý: Quý khách vui lòng điền đẩy đủ thông tin vào ô có (*)

    BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

    Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
    Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
    Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
    Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
    Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
    Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
    Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
    Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
    Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
    Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
    Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
    Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
    Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
    Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
    Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
    Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
    Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
    Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
    Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
    Công ty luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
    ***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty luật ASL LAW***
    Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
    Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
    Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
    Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
    Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
    Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
    Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
    Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
    Contact Me on Zalo
    +84982682122
    WhatsApp chat