Theo Quyết định 194/QĐ-TTg ngày 23 tháng 2 năm 2024 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện các cam kết của Chính phủ Việt Nam về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ cho việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, Chính phủ Việt Nam đã giao Bộ Tài chính nghiên cứu và xây dựng khung pháp lý để cấm hoặc quản lý tài sản tiền ảo vào tháng 5 năm 2025.
Trong một thông báo chính thức tại kỳ họp Quốc hội tháng 10/2022, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khẳng định rằng các loại tài sản ảo chưa có định nghĩa hoặc khái niệm cụ thể như Bitcoin và Ethereum trong hệ thống pháp luật Việt Nam không phải là tiền tệ do ngân hàng trung ương các nước phát hành hợp pháp mà được tạo ra bởi các tổ chức và cá nhân thông qua việc sử dụng các thuật toán trên mạng máy tính.
Các loại tiền ảo, tài sản ảo này chỉ được công nhận là phương tiện thanh toán trong một số cộng đồng nhất định như cộng đồng trò chơi và nền tảng công nghệ, hay cộng đồng đầu tư – tài chính. Về quan điểm đối với các loại tài sản ảo, mỗi quốc gia có chính sách và phương thức quản lý khác nhau.
Một số quốc gia, như Việt Nam, không hoặc chưa có quy định pháp lý về tài sản ảo. Một số quốc gia khác như Hoa Kỳ, Canada, Vương Quốc Anh hợp pháp hóa việc giao dịch các loại tài sản ảo như Bitcoin hoặc các loại tiền mã hóa khác. Nhiều quốc gia có chính sách cấm hoàn toàn tài sản ảo và coi việc sử dụng, giao dịch chúng trên thị trường là hành vi vi phạm pháp luật.
Mức độ cấm có thể là tuyệt đối như Trung Quốc, Qatar, Ả Rập hoặc một phần như Zimbabwe. Các quốc gia này lo ngại sự biến động và tính chất phi tập trung của các loại tài sản ảo không được quốc tế công nhận và hợp pháp hóa có khả năng trở thành mối đe dọa đối với hệ thống tiền tệ quốc gia, tạo cơ hội cho các hoạt động nguy hiểm như rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo,…
Tại thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn chưa có chính sách cụ thể về tài sản ảo, hiện đang trong giai đoạn nghiên cứu và xây dựng khung pháp lý để cấm hoặc quản lý tài sản tiền ảo trước thời điểm tháng 5 năm 2025.
Bài viết sau sẽ phân tích quy định pháp lý về tài sản tại Việt Nam, qua đó làm rõ khái niệm và tính hợp pháp về tài sản ảo, cùng với việc cung cấp một số góc nhìn, đề xuất về việc cấm hay hợp pháp hóa tài sản ảo tại Việt Nam.
Quy định pháp luật về tài sản ảo tại Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm về ‘tài sản’ lần đầu tiên được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945, thời kỳ Việt Nam vẫn thuộc diện kiểm soát và qua đó chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ thống pháp luật Pháp.
Sau các cuộc đấu tranh giành độc lập, Việt Nam đã tiến hành biên soạn lại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản tại Việt Nam. Năm 1995 là năm đầu tiên khái niệm tài sản chính thức được quy định và áp dụng trong Bộ luật Dân sự số 44-L/CTN, sau đó được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và bản mới nhất năm 2015 trong Bộ luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH13 (“Bộ luật Dân sự 2015”).
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Để được công nhận là tài sản, các loại tài sản ảo, hay được biết đến thông dụng hơn dưới thuật ngữ ‘tiền ảo’, ‘tiền điện tử’, ‘tiền kỹ thuật số’,… phải thỏa mãn các đặc điểm cơ bản của tài sản, tức phải thuộc một trong bốn dạng tài sản theo quy định trên.
Nếu không được định dạng dưới bốn hình thức tài sản trên, tài sản ảo đó sẽ không phải tài sản theo như quy định của pháp luật Việt Nam.
Tài sản ảo là vật
Tuy không được định nghĩa cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, vật được hiểu là biểu hiện cụ thể của một tồn tại dưới dạng vật lí, có thể sờ được, nắm được và có thể được con người cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan của mình.
Vật là loại tài sản phải được con người nắm giữ, có thể được sử dụng làm công cụ để thực hiện các giao dịch dân sự trong thế giới thực, thay vì là khái niệm phi vật chất hoặc trong thế giới tinh thần. Theo đó, các loại tài sản ảo tồn tại dưới dạng các dãy dữ liệu, hoặc chuỗi khối trong thế giới điện tử phi vật chất hiển nhiên không phù hợp với khái niệm, phạm vi về vật tại Việt Nam.
Khi giao dịch các loại tài sản ảo, việc chuyển giao tài sản ảo thực chất là chuyển giao giá trị vô hình của một tồn tại phi vật chất mà không có sự hiện diện của các đồ, ‘vật’ trong thế giới vật chất. Qua đó, trong bốn dạng tài sản, việc coi tài sản ảo là một dạng tài sản dưới hình thức vật là điều không có khả năng nhất.
Tài sản ảo là tiền
Ngày 21 tháng 8 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1255/QĐ-TTg về việc “Phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền ảo, tiền điện tử”.
Ban hành kèm Quyết định này là thông báo chính thức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rằng theo các quy định của pháp luật hiện hành về tiền tệ và ngân hàng, Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam.
Việc phát hành, cung cấp và sử dụng tiền ảo, tiền điện tử hay tài sản ảo nói chung như Bitcoin dưới dạng phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm.
Ở góc độ kinh tế, khái niệm tiền thường được hiểu trên thị trường là tiền pháp định do Ngân hàng trung ương của một quốc gia hay cơ quan có chức năng phát hành tiền tệ của quốc gia phát hành, như Ngân hàng Trung ương Việt Nam hoặc Cục Dự trữ Liên Bang Mỹ (FED). Theo đó, Việt Nam không thể xếp tài sản ảo là tiền vì khi giao dịch các loại tài sản ảo, các bên giao dịch hiện không có cơ chế xác định danh tính của người sở hữu tài sản ảo đó, đặc biệt trong trường hợp chủ sở hữu tài sản ảo ẩn danh.
Quan điểm này lần nữa được khẳng định khi lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội vào tháng 10/2022, cho biết rằng tiền ảo, tài sản ảo (hay còn gọi là tiền thuật toán) như Bitcoin, không phải là đồng tiền pháp định do ngân hàng Trung ương các nước phát hành mà do các tổ chức, cá nhân tạo ra bằng các thuật toán trên mạng máy tính.
Các loại tài sản ảo được dùng để giao dịch như Bitcoin, Ethereum chỉ được thừa nhận trong một số cộng đồng nhất định. Chính phủ của các cộng đồng này cũng có thể chưa có quy định điều chỉnh, quản lý việc giao dịch tài sản ảo nên việc các cộng đồng này sử dụng các loại tài sản ảo trong giao dịch phần lớn là ‘giao dịch chui’, không có được sự bảo hộ về mặt pháp lý.
Hiện nay, chỉ có El Salvador và Cộng hòa Trung Phi là các quốc gia công nhận một loại tài sản ảo là Bitcoin như tiền tệ hợp pháp trong giao dịch.
Tài sản ảo là giấy tờ có giá
Theo khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN, giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và những điều kiện khác.
Một số loại giấy tờ có giá phổ biến bao gồm hối phiếu đòi nợ, séc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu, các loại chứng khoán như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, hợp đồng góp vốn đầu tư,…
Là công cụ chủ lực của ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong giao dịch trên thị trường, giấy tờ có giá được định giá bằng tiền và có thể chuyển nhượng trên các sàn giao dịch dân sự.
Theo Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 9 năm 2011 của Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, tài sản ảo không thể được coi là giấy tờ có giá, lý giải rằng tài sản ảo không phù hợp với phạm vi quy định về giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, hối phiếu, séc và các công cụ có thể chuyển nhượng khác.
Tài sản ảo là quyền tài sản
Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015, quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Qua đó, có thể hiểu rằng quyền tài sản của một bên là tổng hợp các quyền và lợi ích của họ trong việc chi phối, kiểm soát tài sản thuộc sở hữu của họ. Một ví dụ điển hình là quyền tài sản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có thể là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc trong lĩnh vực bất động sản là quyền sử dụng đất.
Khác với ba dạng tài sản trên, việc phân loại tài sản ảo là quyền tài sản không phải tuyệt đối bất khả thi, còn phụ thuộc vào dạng tài sản ảo được xem xét, đánh giá. Việc làm rõ tính chất của tài sản ảo như mục đích, phương thức cấu tạo, số lượng giao dịch, liên kết trực tiếp đến tài sản trong thế giới thực là một trong số các điều kiện cần thiết để đánh giá tính khả thi của việc công nhận tài sản ảo đó là tài sản.
Dẫu vậy, góc nhìn trên là một đề xuất để công nhận tài sản ảo là tài sản trong tương lai. Thực tế hiện nay, tài sản ảo vẫn không được công nhận là tài sản tại Việt Nam dù cả hai có một số đặc điểm vô hình chung như có thể trị giá được bằng tiền, được xác lập, chuyển giao quyền sở hữu.
Tại một số quốc gia phát triển, tài sản ảo đã được quy định hoặc được đề xuất quy định là một loại tài sản dưới dạng quyền tài sản. Ở Đức, Bitcoin đã dần được công nhận là một loại tài sản vì thỏa mãn định nghĩa về quyền tài sản khi chúng có khả năng dùng làm phương tiện thanh toán xét trên giá trị kinh tế, tính công khai, minh bạch qua công nghệ chuỗi khối không thuộc sự giám sát, chi phối của bất cứ tổ chức hay Nhà nước nào.
Tuy nhiên, kinh nghiệm của Đức không nhất thiết có thể được áp dụng tại Việt Nam vì quan điểm, chính sách của Việt Nam về tài sản ảo không nhất thiết trùng hợp với Đức. Thay vào đó, thay vì cố gắng tìm cách phân loại các loại tài sản ảo dưới bốn dạng tài sản hiện hành theo như quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 thì liệu chúng ta có nên xem xét theo hướng định vị tài sản ảo là một dạng tài sản mới không?
Việc định vị tài sản ảo vào một loại tài sản nào đó chỉ mang tính trước mắt, tạm thời bởi lẽ tại Việt Nam, có những đặc tính của tài sản ảo không phù hợp hoàn toàn với các dạng tài sản theo quy định của pháp luật. Sự phát triển từng ngày của công nghệ đang dần vượt xa quan niệm truyền thống về tài sản hiện hành, đòi hỏi cần có những quy định pháp lý quy định riêng về các loại tài sản ảo.
Cấm hay hợp pháp hóa tài sản ảo?
Về nhu cầu sử dụng trên thị trường, dù không được giao dịch nhưng việc mua bán, trao đổi các dạng tài sản ảo tại Việt Nam vẫn được thực hiện thường xuyên qua các sàn giao dịch quốc tế hoặc hình thức thỏa thuận trực tiếp, tiềm ẩn rủi ro về hoạt động rửa tiền, đầu cơ gây mất ổn định cho thị trường tài chính.
Chính vì các nguy cơ này nên trong gần một thập kỉ qua, Quốc hội đã nhiều lần đề nghị Chính phủ sớm ban hành hành lang pháp lý cụ thể quy định về hoạt động giao dịch tài sản ảo tại Việt Nam. Chính phủ cũng đã giao nhiệm vụ cho các ban, bộ ngành liên quan để nghiên cứu sớm soạn thảo dự luật, khung pháp lý để cấm hoặc hợp pháp hóa tài sản ảo. Mới nhất là Quyết định 194/QĐ-TTg yêu cầu Bộ Tài chính nghiên cứu và xây dựng khung pháp lý để cấm hoặc quản lý tài sản ảo, tiền ảo vào tháng 5 năm 2025.
Theo số liệu của Hiệp hội Blockchain Việt Nam vào tháng 9 năm 2023, trong giai đoạn từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 10 năm 2022, giá trị tiền ảo Việt Nam nhận về đạt gần 91 tỷ USD. Hoạt động bất hợp pháp chiếm giá trị khoảng 956 triệu USD.
Theo dữ liệu do công ty nghiên cứu blockchain Chainalysis, người chơi tiền số tại Việt Nam kiếm được gần 1,2 tỷ USD năm 2023, nhiều thứ ba sau Mỹ và Anh trên toàn cầu. Việt Nam cũng là một trong 8 nước có lợi nhuận từ tiền số đạt trên một tỷ USD.
Đáng chú ý, Trung Quốc đứng ở vị trí thứ tư với 1,15 tỷ USD mặc dù hoạt động giao dịch và khai thác tiền số tại quốc gia này đã bị cấm hoàn toàn từ năm 2021.
Dựa trên các số liệu trên, có thể rút ra hai nhận định là dù không có quy định, không bị cấm hoàn toàn, nằm trong ‘vùng xám pháp lý’ nhưng hoạt động giao dịch tài sản ảo trên thị trường tài chính Việt Nam vẫn đã phát triển đến mức độ cao trên thế giới. Ngoài ra, xem xét thị trường Trung Quốc dù đã chính thức cấm hoàn toàn hoạt động giao dịch tài sản ảo nhưng tổng giá trị tiền số người dân Trung Quốc kiếm được năm 2023 vẫn xếp thứ tư toàn cầu có thể thấy rằng các lệnh cấm không có tác dụng hạn chế giao dịch tài sản ảo như kì vọng.
Theo đó, xét trên nhu cầu sử dụng và thực tiễn áp dụng trên thực tế, rút kinh nghiệm từ các quốc gia khác thì có thể nhận định rằng Việt Nam nên ban hành quy định chặt chẽ hoạt động giao dịch các loại tài sản ảo thay vì cấm đoán hoạt động này.
Về góc độ pháp lý, có hai quan điểm phổ biến hiện nay trong quá trình tiếp thu ý kiến của người dân. Thứ nhất là tài sản ảo không phải và không nên được công nhận là một loại tài sản, cần cấm tài sản ảo để hạn chế các hoạt động rủi ro liên quan. Thứ hai là tài sản ảo nên được xem xét công nhận là một loại tài sản, thay vì cấm thì nên khuyến khích phát triển thị trường tài sản ảo, tiền ảo, tiền điện tử,… để bắt kịp xu hướng toàn cầu.
Qua bài phân tích trên, người viết ủng hộ quan điểm thứ hai là nên thiết lập, xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh quy định về tài sản ảo tại Việt Nam thay vì cấm hoạt động giao dịch tài sản ảo.
Về tính khả thi, ngoài những điểm phân tích bên trên, tài sản ảo có nhiều yếu tố tương đồng với một tài sản và do đó nên có pháp luật riêng về tài sản ảo. Điển hình, tài sản ảo hiện nay có nhiều đặc tính giá trị quan trọng tương tự với tài sản như có chức năng thanh toán, trao đổi hay chức năng huy động vốn tương tự chứng khoán, được nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia công nhận như El Salvador và Cộng hòa Trung Phi.
Các loại tài sản ảo cũng có tính bảo mật cao. Điển hình, đối với các loại tiền mã hóa như Bitcoin, mỗi đơn vị Bitcoin sẽ gắn liền với một mã khóa tư. Khi giao dịch, Bitcoin sẽ được ghi nhận một mã khóa mới, mã khóa cũ của chủ sở hữu cũ sẽ hết hiệu lực. Điều này đồng nghĩa với việc một đồng tiền Bitcoin chỉ có thể tồn tại duy nhất một chủ sở hữu cùng một thời điểm, không thể có người thứ hai được phép giao dịch bằng đồng tiền ảo đó, đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính Việt Nam nếu triển khai hợp pháp hóa loại tài sản ảo này.
Về lợi ích, ngoài việc giảm thiểu các rủi ro rửa tiền, đầu cơ, tài trợ khủng bố, lũng đoạn thị trường thì khi hợp pháp hóa các loại tài sản ảo, Việt Nam có thể tiến hành thu thuế, thi hành án, định tội danh đối với các hành vi liên quan đến tiền ảo, thay vì để lại một lỗ hổng lớn hiện nay như khi một bên tranh chấp chuyển hết các loại tài sản thành tài sản ảo, Tòa án Việt Nam sẽ không thể tiến hành xử lý tài sản ảo đó.
Hơn nữa, việc xác nhận tài sản ảo là tài sản đồng thời đảm bảo sự an toàn pháp lý cho các nhà đầu tư, giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực đối với cộng đồng, phòng tránh nguy cơ lừa đảo qua hình thức đa cấp, tham nhũng và rửa tiền.
ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal. xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].
Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được hướng dẫn về dịch vụ tư vấn pháp lý về Tài chính và Ngân hàng tại Việt Nam:
BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN