giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam,

Giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, thương mại quốc tế đã mở ra những cơ hội đầy hứa hẹn song hành với những thách thức pháp lý đầy rủi ro. Đối mặt với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chú trọng đến việc ký kết và duy trì các hợp đồng thương mại với các đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, khi mở rộng, hội nhập quốc tế sâu rộng, việc đương đầu với các tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại với các đối tác nước ngoài là điều tất yếu. Để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, việc tìm ra giải pháp giải quyết các tranh chấp trên tinh thần thiện chí, hòa ái, đôi bên cùng phát triển là điều cần được chú trọng hơn cả.

Bài viết sau sẽ phân tích các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hợp đồng, hợp đồng có yếu tố nước ngoài, luật pháp áp dụng khi có tranh chấp hợp đồng đa quốc gia và điểm chú ý khi xác định tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài, cũng như giải pháp, chiến lược tối ưu đề xuất để giải quyết các tranh chấp nêu trên một cách hiệu quả.

Phân biệt hợp đồng với hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH13 (“Bộ luật Dân sự 2015“) quy định hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Một số loại hợp đồng thông dụng tại Việt Nam được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 gồm hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng hợp tác, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng ủy quyền.

Hiện nay, định nghĩa về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài không được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, theo định nghĩa về hợp đồng, có thể thấy hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài là sự thỏa thuận thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, đã được các bên thống nhất nhằm đáp ứng quyền lợi của mỗi bên, cấu thành một mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Tại khoản 7 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp hình thức của hợp đồng không phù hợp theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức đó được công nhận tại Việt Nam.

Tại khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại 2005 số 36/2005/QH11 (“Luật Thương mại 2005”), hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, do đó khi ký kết các hợp đồng cũng cần tuân thủ các quy định về hình thức của Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan.

Như vậy, tùy theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài lựa chọn pháp luật áp dụng mà mỗi hợp đồng sẽ có một hình thức riêng. Hình thức của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi. Thậm chí, theo Điều 11 của Công ước Viên 1980 (CISG), hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không cần phải ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể chứng minh bằng mọi cách, kể cả lời khai của nhân chứng.

Xác định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng dân sự

Để xác định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng dân sự, khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015 quy định yếu tố nước ngoài được thể hiện ở ba trường hợp sau:

  •  “Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;”
  • “Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;”
  • “Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”

Ba dấu hiệu nước ngoài nêu trên có thể được xem xét dưới góc độ điều kiện là chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tượng pháp lý tương ứng. Một quan hệ dân sự được coi là có yếu tố nước ngoài khi quan hệ đó thỏa mãn ít nhất một trong ba yếu tố nước ngoài nêu trên.

Xác định qua chủ thể

Về điều kiện đầu tiên, chủ thể ‘có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài’, yêu cầu một trong các bên tham gia trong quan hệ dân sự là cá nhân nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài mà không bắt buộc hai hoặc tất cả các bên trong quan hệ dân sự đều phải là cá nhân, pháp nhân nước ngoài.

Khi xác định được yếu tố trên thì quan hệ dân sự đó sẽ được xác định là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Ví dụ, một hợp đồng mua bán nông sản được ký kết giữa bên bán là ông A (cá nhân) mang quốc tịch Việt Nam với bên mua là Công ty (pháp nhân) đăng ký kinh doanh có trụ sở tại Mỹ (mang quốc tịch Mỹ).

Để xác định một cá nhân là người nước ngoài hay không thì phương pháp xác định phổ biến nhất là căn cứ dựa trên quốc tịch của các bên tham gia. Một cá nhân nước ngoài có thể bao gồm người có một quốc tịch nước ngoài, người có nhiều quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch, song quốc tịch hoặc các quốc tịch này không phải là quốc tịch Việt Nam.

Khác với cá nhân, pháp nhân không có tình trạng không quốc tịch hay nhiều quốc tịch. Tuy nhiên, việc xác định quốc tịch của pháp nhân trong thương mại quốc tế thường khó khăn khi các quốc gia có định nghĩa khác biệt về quốc tịch của một pháp nhân.

Có quốc gia căn cứ vào nơi thành lập pháp nhân, hoặc nơi trụ sở chính của pháp nhân được thiết lập, hay nơi hoạt động kinh doanh chính của pháp nhân được tiến hành… Sự khác biệt này khiến việc xác định quốc tịch của pháp nhân trở nên phức tạp, qua đó khiến việc xác định quan hệ giữa pháp nhân đó với các bên khác có đủ điều kiện cấu thành yếu tố nước ngoài hay không trở nên khó khăn hơn.

Xác định qua sự kiện pháp lý

Quan hệ dân sự được xem là quan hệ có yếu tố nước ngoài trong trường hợp ‘Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam’ nhưng sự kiện pháp lý như ‘xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ trong hợp đồng xảy ra tại nước ngoài.

Khác với việc xem xét yếu tố nước ngoài dựa trên chủ thể, quốc tịch của các bên tham gia thì trường hợp này tập trung vào nơi diễn ra sự kiện pháp lý làm căn cứ để xác định.

Ví dụ, trong trường hợp hai chủ thể gồm một pháp nhân Việt Nam và một cá nhân Việt Nam đều cùng đi hội thảo IBA Paris 2023 tại Pháp và ký kết hợp đồng hợp tác tại Paris thì hợp đồng đó được xác định là hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài, dựa trên việc quan hệ dân sự đó xảy ra tại nước ngoài.

Tương tự, nếu một quan hệ dân sự được chấm dứt, sửa đổi, hủy bỏ tại nước ngoài thì việc giải quyết tranh chấp cũng sẽ được tiến hành như đối với hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Xác định qua đối tượng pháp lý

Trong trường hợp các chủ thể trong tranh chấp đều có quốc tịch Việt Nam, đồng thời sự kiện pháp lý như chấm dứt, hủy bỏ, thành lập hợp đồng cũng được thiết lập tại Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự này ở nước ngoài thì quan hệ đó cũng được coi là có yếu tố nước ngoài.

Ví dụ, hai doanh nghiệp tại Việt Nam cùng ký kết hợp đồng mua bán linh kiện xe ô tô được sản xuất tại Đức; trong trường hợp này đối tượng pháp lý được xác định là linh kiện xe ô tô sản xuất tại Đức.

Tuy nhiên, thông thường thì trường hợp này chủ yếu áp dụng đối với các tranh chấp tài sản cố định ở nước ngoài như bất động sản.

Tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Như những phân tích nêu trên,một tranh chấp về hợp đồng dân sự được xác định có yếu tố nước ngoài cần có điều kiện tiên quyết là hợp đồng phải có ít nhất một trong ba yếu tố xác định: chủ thể tham gia, sự kiện pháp lý và đối tượng pháp lý là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Tương tự như tranh chấp hợp đồng thông thường, tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh khi một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hay không đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Việc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến bất hòa, tranh chấp không thể giải quyết được thông qua các phương thức thông thường, làm gián đoạn sự vận hành, thực hiện hợp đồng của các bên còn lại trong quan hệ hợp đồng.

Để giải quyết tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các bên có thể lựa chọn ba phương thức giải quyết chính gồm hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.

Tuy nhiên, trước khi tiến đến việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần xác định luật pháp quốc gia áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thông thường trên lãnh thổ Việt Nam và giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Xác định luật pháp quốc gia áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Khi tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài diễn ra, việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ là một trong các bước đầu tiên, đồng thời cũng là bước quan trọng nhất cần thực hiện khi mỗi tranh chấp sẽ có ít nhất hai bộ luật hoặc hệ thống pháp luật từ hai quốc gia quy định về phương pháp giải quyết.

Trong một số trường hợp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp còn phải xác định luật áp dụng giữa luật pháp của các quốc gia của chủ thể tranh chấp với luật pháp quốc tế mà các quốc gia đó là thành viên ký kết.

Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, theo đó pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam. Nếu trong các điều ước quốc tế đó hoặc luật Việt Nam có quy định các bên được lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài đó do các bên thỏa thuận. Ngoài ra, trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo Điều 644 thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về cách xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài theo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên.

Cụ thể, nếu trong quan hệ hợp đồng của các bên có thỏa thuận về việc lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng thì sẽ lựa chọn pháp luật của quốc gia đó làm luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 (Đối tượng của hợp đồng là bất động sản hoặc pháp luật được các bên lựa chọn trong quan hệ hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng mà ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng).

Ngoài quy định trong Bộ luật Dân sự quy định về giải quyết tranh chấp tại Tòa án, sự tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ dân sự của Nhà nước Việt Nam cũng được thể hiện tại các Bộ luật khác. Điển hình, khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại 2010 số 54/2010/QH12 có quy định: “Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất”.

Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng. Trong thương mại quốc tế, thuật ngữ trên còn được biết đến như Luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất hay luật có mối liên hệ mật thiết nhất (Law of the country with which it is most closely connected). Đây là một trong những hệ thuộc đặc thù trong tư pháp quốc tế được áp dụng để xác định luật áp dụng điều chỉnh các vấn đề thuộc nội dung hợp đồng.

Khoản 2 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 diễn giải chi tiết về phương thức xác định ‘nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng’ theo năm tiêu chí, gồm:

  • “Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa;”
  • “Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ;”
  • “Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;”
  • “Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động.”
  • “Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.”

Một vụ việc phổ biến khi Tòa án Việt Nam xác định pháp luật áp dụng dựa trên pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng là Bản án ngày 05/4/1996 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tranh chấp về hợp đồng mua bán giữa một công ty Singapore và một công ty Việt Nam do các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng đối với hợp đồng.

Trong vụ việc này, Tòa án Việt Nam đã áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 của Việt Nam cùng các Công ước quốc tế có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp.

Chú ý trong giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Trong một số trường hợp, việc thực hiện hợp đồng vướng phải vấn đề dẫn đến việc các bên không thể thoả thuận tiếp tục thực hiện hợp đồng. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài sẽ căn cứ chủ yếu vào nguyên tắc tôn trọng ý chí của các bên, thể hiện qua thỏa thuận ghi trong hợp đồng về phương thức giải quyết.

Ở góc độ của cơ quan tài phán, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài sẽ dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên.

Tại Việt Nam, các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm ba phương thức giải quyết chính gồm hòa giải, Trọng tài và Tòa án.

Giải quyết qua hòa giải

Để giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, các bên có thể lựa chọn phương thức hòa giải. Đối với phương thức này, để thực hiện cần có sự đồng ý của các bên và có sự tham gia của hòa giải viên thương mại.

Việc hòa giải được thực hiện, điều chỉnh theo trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại.

Một vụ tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua hòa giải nếu các bên có thỏa thuận về hòa giải thương mại. Việc thỏa thuận có thể được thực hiện trước, sau khi tranh chấp xảy ra hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.

Giải quyết qua Tòa án

Tại Việt Nam, phần lớn các tranh chấp hiện hành đang được Tòa án thụ lý và giải quyết. Việc này tạo nên áp lực đáng kể cho hệ thống tư pháp, khiến một số vụ việc kéo dài thời gian giải quyết lên nhiều năm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của các bên trong tranh chấp.

Tòa án là một thiết chế tài phán công, nằm trong hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia nên quy trình xét xử luôn phải tuân theo pháp luật nhà nước xây dựng ban hành. Khi lựa chọn giải quyết tranh chấp qua cơ quan tài phán này, Tòa án sẽ phải chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp theo như phân tích nêu trên.

Tòa án luôn phải tuân thủ nguyên tắc này, dẫn đến nhiều trường hợp các tranh chấp trở nên khó giải quyết, cụ thể khi các bên không có thỏa thuận trước về luật pháp quốc gia áp dụng và có nhiều quốc gia liên quan đến tranh chấp.

Giải quyết qua Trọng tài

Trái ngược với sự gò bó, ràng buộc bởi pháp luật quốc gia theo các quy tắc tố tụng khi giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự qua Tòa án thì việc giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài qua Trọng tài thương mại cũng là một phương thức giải quyết phổ biến hiện này, thể hiện nhiều ưu điểm hơn vì tính linh hoạt và độ hiệu quả cao.

Trong thời gian gần đây, việc có điều khoản trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng qua Trọng tài đang dần trở nên phổ biến tại Việt Nam khi tiến hành hợp tác thương mại quốc tế.

Với tính chất là một thiết chế tài phán tư, không chịu sự ràng buộc quá chặt chẽ về việc lựa chọn luật pháp áp dụng giải quyết do không nằm trong hệ thống tư pháp của bất kì quốc gia nào, trọng tài thương mại có thể cung cấp giải pháp hiệu quả, hợp lí với tính khách quan và độc lập khỏi các quốc gia có liên quan trong tranh chấp.

Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn về tranh tụng và giải quyết tranh chấp.

BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
Công ty Luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty Luật ASL LAW***
Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
Contact Me on Zalo
+84982682122
WhatsApp chat