xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp khi người lao động thực hiện hành vi sai phạm theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam, xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp khi người lao động thực hiện hành vi sai phạm tại Việt Nam, người lao động thực hiện hành vi sai phạm theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam, xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam,

Xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp khi người lao động thực hiện hành vi sai phạm theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam

Trong bối cảnh phát triển kinh tế và toàn cầu hóa, vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp khi người lao động thực hiện hành vi sai phạm đã trở nên ngày càng quan trọng. Điều này là vì trong quá trình phát triển, kinh tế hóa thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng mở rộng về quy mô. Có nhiều doanh nghiệp quản lý hàng ngàn người lao động, thậm chí lên đến hàng vạn người ở nhiều chi nhánh khác nhau.

Số lượng lớn người lao động tất yếu dẫn đến tình trạng có sai sót trong khâu quản lí, khiến doanh nghiệp không kiểm soát được toàn bộ hành động của người lao động. Vậy, trong trường hợp người lao động chủ động thực hiện hành vi sai phạm mà không dưới sự chỉ đạo của người sử dụng lao động thì theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 số 91/2015/QH13 (“Bộ luật Dân sự 2015”), trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp là gì, được xác định như thế nào?

Làm rõ trách nhiệm bồi thường không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan mà còn tác động đến uy tín và hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Bài viết sau sẽ liệt kê thực trạng hành vi người lao động sai phạm khi làm việc, làm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến trách nhiệm bồi thường, các điều khoản cụ thể trong Bộ luật Dân sự và thực tiễn áp dụng trong các vụ tranh chấp lao động, từ đó nêu bật vai trò của doanh nghiệp trong việc quản lý rủi ro pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.

Thực trạng hành vi người lao động sai phạm khi làm việc tại doanh nghiệp

Tháng 5 năm 2023, Tập đoàn Samsung Hàn Quốc chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm điện tử tiêu dùng và công nghệ cao, bao gồm điện thoại di động, máy tính bảng, tivi, và các thiết bị điện tử khác đã phải ra lệnh cấm toàn bộ nhân viên trên toàn hệ thống, bao gồm cả Samsung Việt Nam sử dụng các công cụ AI tạo sinh như ChatGPT, Google Bard và Bing sau khi một số nhân viên đã đăng tải thông tin mật của công ty lên ChatGPT để xử lý công việc, bao gồm thông tin sản phẩm, biên bản họp, định hướng phát triển,…

Các thông tin mật đó hiện tại vẫn được lưu trữ vĩnh viễn trong máy chủ của OpenAI, không thể xóa bỏ hoặc thu hồi, dẫn đến nguy cơ tiết lộ các thông tin nhạy cảm của khách hàng, đối tác của Samsung, dẫn đến thiệt hại không thể vãn hồi.  

Hay một ví dụ điển hình khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ khi các nhân viên của công ty Coca Cola đã chủ động tổng hợp và rao giá bán công thức bí mật tạo nên Coca Cola cho đối thủ trăm năm của họ, công ty Pepsi. Tuy nhiên, Pepsi không những không trả tiền để mua về công thức này mà họ còn giao nộp những tay này cho nhà chức trách và thúc đẩy quan hệ với Coca Cola.

Nếu Pepsi đồng ý trả tiền, họ rất có thể đã có lợi thế so với Coca Cola, sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tận dụng công thức bí mật đó, như công bố cho thị trường, tạo ra sản phẩm vị Coca Cola với nhãn hiệu Pepsi, bán phá giá thức uống vị Coca Cola,… Thiệt hại có thể khiến cho công ty trăm năm tuổi đời như Coca Cola sụp đổ trong vài tháng.

Hai ví dụ này chưa gây ra tổn thất thực tế nào cho doanh nghiệp, mới chỉ dừng ở mức giả thuyết. Một số trường hợp thực tế mà doanh nghiệp cũng có thể phải trả giá do hành vi sai phạm của người lao động ở hoạt động thường ngày tại Việt Nam điển hình như tình trạng dân văn phòng Việt Nam thường sử dụng các ứng dụng crack, phần mềm được bẻ khóa bảo mật bản quyền để làm việc.

Phần mềm bị bẻ khóa phổ biến nhất là bộ công cụ văn phòng Microsoft Office (Words, Excel, Powerpoint) và chìa khóa kích hoạt Windows bản quyền vĩnh viễn. Các phần mềm này không được doanh nghiệp yêu cầu người lao động cài đặt để xử lý công việc mà người lao động tự thực hiện để hoạt động hiệu quả hơn. Trong nhiều trường hợp, người lao động không chỉ dùng các phần mềm vi phạm này phục vụ công việc mà còn cho mục đích cá nhân.

Hành động này không chỉ vi phạm bản quyền mà còn có thể dẫn đến những rủi ro bảo mật thông tin, đặc biệt trong môi trường làm việc yêu cầu cao về bảo mật dữ liệu. Việc sử dụng phần mềm không bản quyền có thể làm lộ thông tin nhạy cảm, gây tổn hại đến danh tiếng và tài chính của doanh nghiệp.

Một ví dụ phổ biến khác là hành vi gian lận trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam. Trong vụ án Vạn Thịnh Phát, cơ quan điều tra đã nhận được đơn tố giác nêu rõ các nhân viên ngân hàng của SCB đã có hành vi gian dối, lừa đảo, dẫn dụ khách hàng mua trái phiếu hoặc chuyển từ tiền tiết kiệm tại SCB sang ký kết hợp đồng mua trái phiếu với Công ty chứng khoán TVSI thông qua thủ đoạn gian dối thuật ngữ ‘tiết kiệm trái phiếu’ và nhiều thủ đoạn tương tự khác.

Họ không giới thiệu cho khách hàng hiểu về sản phẩm trái phiếu, mà nói với khách hàng đây là một hình thức tiết kiệm linh hoạt, lãi suất cao, tính thanh khoản cao, được Ngân hàng SCB bảo lãnh nhưng thực tế đây là bảo lãnh phát hành, không phải bảo lãnh thanh toán, hoàn toàn không có tác dụng bảo hộ quyền lợi của khách hàng.

Ngoài ra, họ không cho khách hàng xem trước hợp đồng mua bán trái phiếu mà hướng dẫn khách hàng chuyển tiền vào tài khoản Công ty chứng khoán TVSI, rồi sau vài tuần mới trả hợp đồng cho khách ký.

Ngoài các trường hợp này, mỗi năm đều có vô số vụ án xét xử nhân viên ngân hàng lợi dụng uy tín của ngân hàng để tự ý lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của khách hàng. Nhiều vụ thiệt hại lên đến hàng chục tỷ đồng, không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho khách hàng, mà còn làm giảm lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của toàn ngành.

Thực trạng hành vi sai phạm của người lao động khi làm việc tại doanh nghiệp đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng không chỉ đối với uy tín của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Những hành vi này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm áp lực công việc, thiếu sự quản lý chặt chẽ, hoặc thậm chí là thiếu nhận thức về đạo đức nghề nghiệp.

Việc doanh nghiệp chủ động xây dựng chính sách nhân sự rõ ràng, đào tạo nhân viên về đạo đức nghề nghiệp và pháp luật là rất cần thiết để giảm thiểu các rủi ro phát sinh từ những sai phạm này.

Trách nhiệm của doanh nghiệp khi có sai phạm xảy ra

Do những hành vi sai phạm người lao động thực hiện trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp không phải điều khoản thuộc nội dung hợp đồng lao động đã ký kết giữa hai bên, mang tính chất bất ngờ, không thể dự đoán trước, không thể có biện pháp đề phòng nên nếu có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh, nó được phân loại là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Khi có hành vi sai phạm của người lao động gây nên hậu quả cần bồi thường, sẽ có hai trường hợp chính là người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường toàn phần, một phần hoặc người lao động có trách nhiệm bồi thường toàn phần, một phần. Không phải trong mọi trường hợp người lao động làm việc theo hợp đồng với người sử dụng lao động gây nên thiệt hại thì người sử dụng lao động mặc nhiên sẽ phải là bên bồi thường cho bên bị thiệt hại.

Một số lưu ý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người lao động thực hiện hành vi sai phạm bao gồm:

Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời

Khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Trong đó thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ là tất cả các thiệt hại thực tế xảy ra đều phải được bồi thường, còn thiệt hại phải được bồi thường kịp thời là thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng nhằm ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại.

Theo đó, nếu hành vi sai phạm của người lao động đang trong hợp đồng với doanh nghiệp gây thiệt hại cho một bên khác thì doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với bên chịu thiệt hại, toàn bộ và kịp thời. Nếu doanh nghiệp yêu cầu người lao động bồi thường thì đấy là thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, không liên quan đến bên chịu thiệt hại.

Điều 597 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. Nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết yêu cầu cấp bách của bên bị thiệt hại như buộc bồi thường trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

Có thể được giảm mức bồi thường

Khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.”

Nếu người lao động thực hiện sai phạm do vô ý hoặc xác định là không có lỗi, người sử dụng lao động không biết hoặc không thể biết, không thể can thiệp hoặc người lao động không có đủ khả năng kinh tế để bồi thường thì có thể xem xét giảm mức bồi thường.

Điển hình, nếu người lao động thu nhập hàng tháng là 5 triệu đồng trong khi thiệt hại gây nên là vài trăm triệu đồng thì mức thiệt hại này là quá lớn so với khả năng kinh tế của người lao động. Nếu họ đã chứng minh được rằng nếu Tòa án tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt hại thì họ không có điều kiện thi hành án, khi đó có thể xem xét giảm mức bồi thường ở mức phù hợp với điều kiện kinh tế của người lao động.

Quyền yêu cầu thay đổi mức bồi thường

Khoản 3 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”

Khi Tòa án đã ra quyết định yêu cầu bên gây thiệt hại bồi thường mà mức bồi thường thiệt hại có thể không còn phù hợp với thực tế, điển hình như có sự thay đổi lớn về giá trị của đồng tiền dùng để xác định khoản bồi thường, đến từ các yếu tố như lạm phát, giảm phát, chiến tranh hoặc các yếu tố như khả năng kinh tế của bên gây thiệt hại, có trách nhiệm bồi thường, khả năng lao động, kinh tế của bên bị thiệt hại thì mức bồi thường có thể cần được điều chỉnh để phản ánh những thay đổi này.

Để yêu cầu điều chỉnh mức bồi thường thiệt hại, bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại phải nộp đơn yêu cầu điều chỉnh. Đơn yêu cầu cần kèm theo các tài liệu và chứng cứ chứng minh lý do cần thay đổi mức bồi thường.

Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra

Khoản 3 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.”

Điển hình, nếu người lao động của doanh nghiệp A hợp tác với người lao động của doanh nghiệp B gây nên tổn thất cho doanh nghiệp B mà Tòa án xác định lỗi của hai bên là như nhau (50%) thì bên A chỉ phải bồi thường 50% thiệt hại cho bên B.

Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình

Khoản 3 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”

Nếu bên bị thiệt hại biết, lường trước hoặc có khả năng ngăn chặn thiệt hại xảy ra nhưng vẫn để thiệt hại xảy ra, không hạn chế thiệt hại thì họ sẽ không được bồi thường thiệt hại.  

Ví dụ, nếu người lao động của doanh nghiệp C thảo luận với bên D về việc đăng tải thông tin lên nền tảng ChatGPT của OpenAi để hỗ trợ xử lý công việc, bên D đã nhận được đầy đủ thông tin, biết rõ mối nguy bảo mật tiềm tàng nhưng không ngăn chặn hay có đề xuất thay đổi cách thức xử lý công việc, để thiệt hại xảy ra thì họ sẽ không được bồi thường thiệt hại.

ASL Law là công ty luật độc lập và cung cấp đầy đủ dịch vụ được tín nhiệm cao của Việt Nam gồm các luật sư giàu kinh nghiệm và tài năng. ASL Law được Legal500, Asia Law, WTR và Asia Business Law Journal xếp hạng là Công ty Luật hàng đầu tại Việt Nam. Có trụ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích chính của ASL LAW là cung cấp lời tư vấn và giải pháp lý thiết thực, hiệu quả và hợp pháp nhất cho khách hàng trong nước và quốc tế. Nếu cần sự trợ giúp, Quý khách hàng có thể gửi email liên hệ tới [email protected].

Liên hệ với công ty Luật ASL LAW để được tư vấn Luật về Lao động và Việc làm.

BÀI VIẾT HỮU ÍCH LIÊN QUAN

Đại diện sở hữu trí tuệDịch vụ đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu quốc tế
Đăng ký nhãn hiệu quốc tếĐăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Đăng ký thương hiệu quốc tếQuy trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Thủ tục đăng ký nhãn hiệuQuy trình đăng ký nhãn hiệu
Đăng ký nhãn hiệu như thế nàoThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Cách thức đăng ký nhãn hiệuDịch vụ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ bảo hộ nhãn hiệu
Cách thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoáDịch vụ đăng ký nhãn hiệu độc quyền
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu độc quyềnĐăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu độc quyềnThủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hoá độc quyền
Đăng ký nhãn hiệu công ty như thế nàoĐăng ký nhãn hiệu độc quyền như thế nào
Đăng ký nhãn hiệu mớiĐăng ký thương hiệu độc quyền ở đâu
Tư vấn đăng ký nhãn hiệuLuật sư sở hữu trí tuệ
Đăng ký nhãn hiệu công tyĐăng ký nhãn hiệu logo
Đăng ký sáng chếDịch Vụ đăng ký sáng chế
Đăng ký độc quyền sáng chếĐăng ký bản quyền tác giả
Đăng ký bản quyền phần mềmThủ tục đăng ký bản quyền
Đăng ký bản quyềnĐăng ký bản quyền bài hát
Công ty Luật sở hữu trí tuệĐại diện sở hữu trí tuệ
***Dịch Vụ pháp lý khác của Công ty Luật ASL LAW*** 
Dịch vụ pháp lý thuê ngoài cho doanh nghiệp và StartupĐăng ký nhãn hiệu quốc tế
Tư vấn đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt NamĐăng ký sáng chế
Tư vấn đầu tư tại Việt Nam cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tai Việt NamTư vấn Mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
Mở công ty tại Việt NamTư vấn tài Chính – Ngân hàng
Mở văn phòng đại diện tại Việt NamDịch vụ Soạn thảo hợp đồng
Dịch vụ sở hữu trí tuệPháp lý về lao động và việc làm
Đăng ký nhãn hiệu tại Việt NamTư vấn giải quyết tranh chấp
Đăng ký bản quyềnTư vấn nhượng quyền thương mại
Contact Me on Zalo
+84982682122
WhatsApp chat